NGŨ TRƯỢC

Ngũ trược là năm thứ dơ dáy ở cõi Ta Bà, Đức Thế Tôn thường gọi cõi Ta Bà là cõi ác lụy, tràn đầy năm thứ trược (Ta Bà ác ngũ trược ). Song Ngài vì nguyện lực, vì lòng từ bi, chẳng nệ cõi ác lụy, ác trược ấy, nên giáng thế mà giáo hóa chúng sanh. Nhứt là thuyết cho họ biết cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà đặng họ nguyện tu hành vãng sanh về đó.
1. Kiếp trược : Còn gọi là kỳ kiếp trược vào thời giảm kiếp, con người ta tuổi thọ giảm dần, đến khi tuổi thọ còn 10 tuổi thì hết cái giảm kiếp. Trong thời kỳ ấy, con người có đủ bồn thứ ố trược ( kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược )
2. Kiến trược : Sự thấy biết ô trược con người có cái thấy biết tà vạy,chấp quấy bỏ phải, theo tà bỏ chánh, điên đảo, thiên lệch.
3. Phiền não trược : Các mối mê dục phiền muộn ô trược con người trong tâm chứa đầy những tham lam, giận hờn, mê muội ngu si.
4. Chúng sanh trược : Chúng sanh ở cõi ô trược này bám chấp vào sanh mạng mình là thật có, nên hằng bị khổ não tai nạn, ít được an nhàn.
5. Mạng trược : Đời sống ô trược, bởi đời sống con người ta giảm dần, cho nên trong đời họ, họ phạm rất nhiều tội lỗi, họ lo tìm hưởng các điều thỏa thích về vật chất ô trược, chẳng lo tu hành, nên cuộc sống của họ tạo vô số ác nghiệp.
Trong ngũ trược, kiếp trước chứa đầy đủ bốn trược sau, cho nên bốn trược sau có thể hợp thành kiếp trược.
“Ái bất trọng bất sinh Ta-bà, nguyện bất thiết bất sinh Cực Lạc.”
Nghĩa là: Nếu không có tình ái sâu nặng, thì không sinh vào cõi Ta bà; nếu không có nguyện lực tha thiết, thì không thể sinh về Cực Lạc.
Cõi Ta-bà chính là thế giới mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thị hiện và giáo hóa. “Ta-bà” được dịch là “Kham Nhẫn”, có nghĩa là thế giới này tuy đầy rẫy khổ đau, nhưng con người vẫn có khả năng nhẫn chịu nên gọi là Kham Nhẫn.
Theo Kinh A Di Đà, thế giới Ta-bà là cõi ngũ trược ác thế, gồm:
Khi thời chánh pháp và tượng pháp diệt hết, bước vào thời kỳ mạt pháp, con người trở nên tà kiến, không còn niềm tin chân chánh, tà thuyết nổi lên, không biết tu hành theo con đường thiện lành. Đây gọi là Kiến trược.
Chúng sanh bị ràng buộc bởi ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) và lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), khiến tâm phiền não dấy khởi, sinh tham, sân, si, mạn, nghi, khiến thân tâm bất an. Đây gọi là Phiền não trược.
Chúng sanh do mê muội, tà kiến che lấp tâm trí, không còn hiếu kính cha mẹ, không tu thiện, không biết tránh ác, không sợ quả báo, khiến phước báu ngày càng suy giảm, khổ báo ngày càng tăng. Đây gọi là Chúng sanh trược.
Chúng sanh tạo nghiệp ác nhiều, nên tuổi thọ ngày càng giảm, từ tám vạn bốn ngàn năm xưa kia đến nay, người sống trăm tuổi đã hiếm hoi. Đây gọi là Mệnh trược.
Vì thế, thế giới Ta-bà được gọi là cõi ngũ trược ác thế.
Một lần nọ, Tôn giả Xá Lợi Phất thắc mắc và hỏi Đức Phật:
“Vì sao các cõi nước của chư Phật đều thanh tịnh, trang nghiêm, mà cõi nước của Thế Tôn lại đầy dẫy ô trược, bất tịnh?”
Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca liền dùng ngón chân ấn xuống đất, ngay lập tức, cảnh giới của Ta-bà liền hiện ra: mặt trời, mặt trăng sáng rực, sông suối trong ngần, cây cối xanh tươi, hoa cỏ rực rỡ. Đức Phật bảo:
“Đây mới thật sự là thế giới của Ta. Những gì ông thấy trước kia là do nghiệp lực của chúng sanh mà hiển hiện.”
Điều này cho thấy, Đức Phật thị hiện nơi cõi Ta-bà không phải vì nơi đây vốn là cõi uế trược, mà chính do nghiệp lực của chúng sanh khiến thế gian trở nên ô nhiễm, đau khổ. Tùy theo nghiệp lực mỗi người, mà cảnh giới thọ nhận cũng khác nhau. Từ dung mạo, trí tuệ, tuổi thọ, phước báo, đều do nghiệp thiện ác đã tạo mà thành.
Dù thế gian đầy rẫy khổ đau, nhưng không phải không có niềm vui. Chỉ là khổ nhiều hơn vui. Con người phải chịu đựng không chỉ bát khổ (sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh), mà còn phải đối diện với đói khát, nóng lạnh, vu khống, phỉ báng, oan ức, tủi nhục, thất bại, thiên tai, chiến tranh…
Nếu chúng ta hiểu rằng cuộc đời vốn là chịu đựng khổ đau, mà có thể an nhiên đối diện, đó gọi là sinh nhẫn.
Nếu có thể dùng Phật pháp làm kim chỉ nam cho cuộc sống, không thấy khổ là khổ, không thấy nạn là nạn, mà còn rèn luyện được sức mạnh để hóa giải đau khổ, thì đó gọi là pháp nhẫn.
Nếu thấu triệt lý duyên khởi, thấy rằng vạn pháp vốn vô tự tính, không có thực thể cố định, nên không có gì để nhẫn hay không nhẫn, thì gọi là vô sinh pháp nhẫn.
Khi đạt đến vô sinh pháp nhẫn, ngay nơi Ta-bà mà có thể chuyển hóa thành Tịnh độ.
Trong đời sống bận rộn ngày nay, không phải ai cũng có đủ thời gian để đến chùa hay duy trì công phu miên mật. Máy niệm Phật ra đời như một pháp bảo giúp hỗ trợ hành giả tinh tấn tu tập mọi lúc, mọi nơi, giúp tâm an định, hướng về Tịnh Độ.
Máy Niệm Phật Giúp Tâm Không Tán Loạn
Khi tâm chưa thuần thục, chúng ta dễ bị phiền não cuốn trôi. Nghe danh hiệu Phật liên tục từ máy niệm Phật giúp tâm quay về chánh niệm, đoạn trừ vọng tưởng, từ đó tăng trưởng định lực và trí tuệ.
Công Năng Hỗ Trợ Hành Trì Tinh Tấn
🔸 Phát danh hiệu Phật, chú Đại Bi, kinh điển liên tục 24/24, giúp gia trì năng lượng an lành trong không gian sống.
🔸 Âm thanh trong trẻo, rõ ràng, giúp hành giả dễ dàng nhiếp tâm khi tụng niệm.
🔸 Máy niệm Phật năng lượng mặt trời, hoạt động liên tục không cần cắm điện, thích hợp đặt tại bàn thờ, nghĩa trang, hoặc nơi thanh tịnh.
Độ Thoát Oan Gia Trái Chủ, Lợi Lạc Cho Người Âm
Trong Kinh Địa Tạng, Đức Phật dạy rằng nếu chúng ta hồi hướng công đức niệm Phật, trì chú thì không chỉ tự lợi mà còn độ thoát cho vong linh, oan gia trái chủ, giúp họ lìa khổ, sinh về cõi lành. Máy niệm Phật chính là phương tiện giúp trợ niệm, hộ trì cho người đã khuất, mang lại lợi ích lớn lao cho cõi âm.