Tịnh Độ Quyết Nghi

TỊNH ĐỘ HOẶC VẤN

trước
tiếp

Đời Nguyên, Thiên Như Duy Tắc Thiền sư thuật

ĐỀ TỪ:

Ngoài song, non xanh giăng màn hoa,

Quanh núi, suối trong buông cầm ca,

Trong chùa niệm Phật A Di Đà,

Tưởng niệm trời Tây đầy liên hoa.

Danh hiệu A Di Đà

Nghĩa lý diệu thâm xa.

Hương quang trang nghiêm pháp,

Chính công án thiền na.

Ngàn muôn mấy ai kẻ tri âm,

Thấu đáo A Di hồng danh thâm,

Thiên Như lòng từ soi chân đăng,

Đưa người mau ra khỏi mê lầm.

Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bỗng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là thiền khách. Lão nhơn im lặng, gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi. Đối tọa đã lâu, ánh tịch dương tà tà xuyên qua song trúc, lò hương thiền khói sắp muốn tan, khách từ từ đứng dậy, sửa y phục nghiêm trang, thư thả mở lời thưa thỉnh:

1. HỎI RẰNG: Trộm nghe Vĩnh Minh Hòa-thượng ẩm thọ môn học đơn truyền nơi Thiều Quốc sư ở Thiên Thai, mà cũng chính là đích tôn của ngài Pháp Nhãn. Khi Hòa-thượng trụ trì chùa Tịnh Từ ở Hàng Châu, đã khai thị cho học chúng rất nhiều, biện tài cơ trí dường như gió cuốn sấm vang, hải nội thiền lâm đều kính xưng là bậc Đại tông tượng. Tại sao ngoài sự nói thiền, Ngài lại tự tu Tịnh-độ, khuyên người niệm Phật, viết sách rộng truyền môn ấy nơi đời?

ĐÁP: Lời hỏi ấy rất thích đáng! Vĩnh Minh đại sư rất có công với bên Tông cũng như bên Giáo. Tôi học tập theo Thiền tông, chưa tinh tường về Tịnh-độ, nhưng cũng thường qua những kinh sách của môn đó, nên cũng biết phần đại khái:

Tịnh-độ là phép dễ tu dễ chứng, song cũng là môn khó nói khó tin. Cho nên khi còn tại thế, đức Thích Ca từ phụ vì hàng đệ tử nói kinh A Di Đà, đã dự biết chúng sanh đời mạt pháp khó sanh lòng tin tưởng, mới dẫn lời thành thật của sáu phương chư Phật, để phá mối nghi và phát khởi tín tâm cho người sau. Lúc thuyết kinh gần xong, nhân nói đến chư Phật khen ngợi mình, đức Bổn Sư lại bảo: “Nên biết ta ở đời ác năm trược, làm việc khó này đắc quả Vô-thượng Bồ-đề. Vì tất cả thế gian nói pháp khó tin đây, thật là một điều rất khó!”. Ấy đều là những lời tha thiết cặn kẽ, dặn dò để khuyên người tin tưởng. Đấng Thế Tôn đã rủ lòng đại bi, cứu đời kiếp mạt. Khi kim khẩu nói ra một câu một kệ, hàng nhơn phi nhơn đều tín thọ phụng hành. Riêng về thuyết Tịnh-độ, thế gian có xen lẫn lòng nghi. Bởi giáo môn Tịnh-độ cực rộng lớn, mà pháp tu Tịnh-độ lại quá giản dị. Hai điểm ấy dường như cách biệt, khiến cho người nghe khó nén lòng nghi. Nói rộng lớn, là môn này thâu nhiếp tất cả căn cơ: Trên từ bậc Đẳng giác Bồ-tát, vị Nhất sanh Bổ xứ đều cầu về Tịnh-độ, dưới cho đến ngu phu ngu phụ, ngũ nghịch, thập ác, nếu quyết tâm tín hướng đều được vãng sanh. Nói giản dị là người tu không phải gian nan lao khổ, chỉ trì niệm sáu chữ hồng danh mà thoát Ta Bà, sanh Cực Lạc được bất thoái, cho đến thành Phật. Bởi có sự rộng lớn mà lại giản dị như thế nên dù người trí cũng sanh nghi. Nếu ông nhận thức rõ được điểm này, tất sẽ biết lời khen của ngài Vĩnh Minh rất có ý thâm, mà không phải là quá đáng.

2. HỎI: Những bậc ngộ đạt trong Thiền tông, đã thấy tánh thành Phật, há lại khứng chịu cầu sanh về Tây phương ư?

ĐÁP: Thật ra ông chưa biết đó thôi. Chính những bậc ngộ đạt càng cấp thiết cầu sanh. Cổ đức đã bảo: “Không cầu về Tịnh-độ, còn nguyện sanh cõi nào?”. Nay ông chưa ngộ đạo, giả sử khi được tỏ ngộ rồi, e cho tâm niệm cầu sanh Cực Lạc của ông, muôn trâu cũng không thể kéo lại!

3. HỎI: Phật, Tổ ra đời vì độ chúng sanh, học giả chỉ lo việc lớn chưa xong. Nếu đã phát minh đại sự (tức ngộ đạo), nên theo gương đấng Đại giác, hiện thân vào nơi khốn khổ, không hiềm đường sanh tử, mà độ khắp hàm linh. Nếu bậc đã ngộ đạt mà còn cầu sanh Tịnh-độ, chán khổ tìm vui, không đoái đến kẻ đang ở trong vòng chìm đắm. Tôi dù ngu hèn, vẫn không thích làm như vậy!

ĐÁP: Thấy chiếc trứng mà muốn cho nó nở liền, tâm niệm ấy sao mà vội gấp! Ông cho rằng một phen tỏ ngộ, thì nghiệp tập đã dứt sạch, được ngay Vị bất thoái chuyển ư? Và cũng không còn học khắp Phật pháp, không cần phải tu hành thêm để chứng những quả vị từ thấp đến cao ư? Hay là ông lại nghĩ: Một phen ngộ đạo, tất đã đồng hàng với chư Phật, có thể vào sanh ra tử không bị chướng duyên nhiễu loạn ư? Nếu quả như thế thì chư đại Bồ-tát trải qua hằng hà sa kiếp tu sáu độ muôn hạnh, cũng đều phải hổ thẹn với ông! Cổ giáo đã có lời răn nhắc: “Hàng Thanh-văn còn muội lúc ra thai, bậc Bồ-tát còn mê khi cách ấm!”. Hai hạng ấy mà còn như thế, huống chi người ngộ giải non kém, tự cứu chưa xong giữa đời này ư? Dù cho chỗ tỏ ngộ có sâu xa, trí thông hiểu có cao sáng, hạnh cùng giải hợp nhau, chí quyết muốn độ người. Nhưng vì chưa lên hàng Bất thoái, lực dụng chưa đầy đủ, mà muốn ở cõi đời ác này hóa độ kẻ cang cường, điều ấy bậc Tiên Thánh cũng chưa hứa nhận. Ví như đem chiếc thuyền đóng trám chưa kỹ, để vớt người nơi biển dậy ba đào, cái họa trầm nịch cả đoàn tất không tránh khỏi. Cho nên Luận Vãng Sanh nói: “Muốn du hành nơi địa ngục, muốn cứu độ chúng hữu tình mê khổ, trước phải cầu sanh về cõi kia, đợi khi chứng được Vô sanh nhẫn rồi sẽ trở lại đường sanh tử mà thật hành bản nguyện. Do nhân duyên ấy nên người tu mới cầu về Tịnh-độ”. Lại Tiên Thánh cũng đã bảo: “Chưa được Vị bất thoái chuyển, chưa chứng Vô sanh nhẫn, cần phải thường không rời Phật. Ví như trẻ thơ không nên xa mẹ, như chim non chỉ có thể chuyền cành”.

Nay ở cõi Ta Bà, đức Thích Ca đã diệt, Phật Di Lặc chưa sanh. Bốn đường khổ thú, nhân quả dây dưa, trăm mối ngoại tà, thị phi rối loạn. Sắc tốt tiếng dâm hằng khuyến dụ, cảnh hư duyên ác mãi vây quanh. Trong hiện trạng ấy, đã không có Phật để nương nhờ, lại bị cảnh duyên làm khuấy động, hàng sơ tâm ngộ đạo hỏi mấy ai không bị thoái lui? Cho nên đấng Thế Tôn ân cần chỉ về Cực Lạc. Đức Di Đà hiện đang nói pháp, cảnh Diệu độ muôn thứ thuận duyên. Đã nương nhờ hải chúng, nhẫn lực mau thành, lại gần đấng Pháp vương, Phật thừa dễ đạt. Chừng ấy muốn ra ứng hóa độ sanh, còn chi trở ngại? Cũng vì lẽ ấy, bậc thượng căn lợi trí còn nguyện thác sanh, huống chi ông là hạng trung hạ mới được đôi chút giải ngộ?

Ông há không thấy trong kinh Quán Phật Tam Muội, ngài Văn Thù tự bày tỏ túc nhân, bảo mình đã chứng Niệm Phật Tam Muội, thường sanh Tịnh-độ? Do đó, đức Thế Tôn thọ ký cho Ngài: “Được sanh Cực Lạc”.

Lại chẳng thấy trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ-tát đem mười đại nguyện vương khuyến tấn Thiện Tài đồng tử và đại chúng, nên dùng công đức đó cầu sanh về Cực Lạc ư?

Lại chẳng thấy trong kinh Lăng Già, đức Thế Tôn đã huyền ký: “Sau xứ Nam Thiên Trúc, có danh đức Tỳ-kheo, tôn hiệu là Long Thọ, chứng Sơ Hoan Hỷ Địa, sanh về cõi Cực Lạc” ư?

Và chẳng thấy trong Luận Khởi Tín, Mã Minh Bồ-tát khen ngợi sự vãng sanh. Trong kinh Đại Bảo Tích, Phật hứa khả cho Tịnh Phạn vương và bảy vạn Thích chủng đồng về An dưỡng. Trong kinh Thập Lục Quán, đức Thế Tôn chỉ dạy phương pháp cho bà Vi Đề Hy cùng 500 thị nữ được lễ kính đức A Di Đà ư?

Vua Tịnh Phạn và bà Vi Đề Hy hiện tiền đều đã chứng Vô sanh pháp nhẫn. Ở Tây Trúc những hạng ấy cầu vãng sanh rất nhiều. Đông độ có Viễn Công ở Lô Sơn cùng các bậc cao nhơn trong Liên xã. Những vị tôn túc hai tông Thiên Thai, Hiền Thủ, đều dùng môn niệm Phật tự tu độ người, khuyến hóa Tăng tục cầu sanh Tịnh-độ. Nói chung những bậc cao đức tu Tịnh nghiệp số lượng không biết bao nhiêu mà kể! Văn Thù, Phổ Hiền là bậc đại Bồ-tát; Thiện Tài đồng tử và hải chúng Hoa Tạng đều là bậc đại nhơn trong 54 ngôi vị; Mã Minh, Long Thọ là bậc đại Tổ sư. Những Thánh nhơn ấy chỗ ngộ và chứng siêu xuất hơn chúng ta ngày nay như trời với vực, mà còn nguyện sanh về Tây phương. Ông bảo rằng đã tỏ ngộ không cần về Cực Lạc, thì các ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, chắc là không bằng ông rồi! Ông thử tự lượng xem chỗ tu chứng có bằng hai bậc Đại sĩ và hai vị Tổ sư; sự tham ngộ có bằng ngài Thiện Tài cùng hải chúng; cảnh giới sở đắc và được Phật hứa khả có bằng vua Tịnh Phạn và bà Vi Đề Hy chăng? Vả lại, Tịnh Phạn vương là thân sanh của Phật, bảy vạn Thích chủng là tộc thuộc của Ngài. Nếu sự về Tịnh-độ không có lợi ích thì đức Thế Tôn đâu nỡ khiến phụ vương và hàng thân thuộc cầu vãng sanh? Trước kia đã nói bậc chứng được Vô sanh nhẫn có thể vào tục độ sanh. Nay vua Tịnh Phạn đã đắc quả ấy mà đức Như Lai còn khuyên vãng sanh, thì biết việc này cần thiết lắm!

Vì lẽ ấy nên ngài Vĩnh Minh động mối Bi tâm, đem hết tâm gan chủ trương Tịnh-độ, đã tự tu lại khuyên đời. Lâm chung, Đại sư biết trước ngày giờ, có các điềm lành ứng hiện. Lúc trà tỳ, xá lợi vô số. Về sau có một vị Tăng ở Phủ Châu, thường cung kính đi nhiễu xung quanh tháp của Ngài. Nhiều người hỏi lý do thì vị Tăng ấy đáp: “Nhân lúc tôi bị bệnh nặng, thần thức đi vào minh giới, Diêm Vương xét thấy thọ số chưa mãn, cho đưa trở về. Khi ấy, tôi thấy bên phía tả đại điện có thiết bàn thờ di tượng một vị Đại đức, Diêm Vương lễ bái ân cần. Hỏi ra thì quan Chủ Lại bảo đó là chân dung của Vĩnh Minh Diên Thọ thiền sư. Vì Ngài tu hành tinh tấn, được sanh về thượng phẩm ở Cực Lạc, nên Diêm Vương họa tượng để thờ”. Vĩnh Minh đại sư là bậc đã ngộ suốt môn Thiền trực chỉ của Tổ Đạt Ma, mà lại gởi chất nơi phẩm sen thượng thượng bên trời An dưỡng. Sự kiện ấy làm duyên khuyến tấn cho chúng sanh đời mạt pháp. Cho nên tôi nói Ngài rất có công đối với bên Tông cũng như bên Giáo.

Tử Tâm Tân thiền sư đã ngộ bên Thiền, lại khuyên tu bên Tịnh: Di Đà rất dễ niệm, Tịnh-độ rất dễ sanh. Người tham thiền niệm Phật rất tốt. Nếu căn cơ còn kém, e đời nay chưa đạt ngộ, kiếp sau dễ lạc bến mê, thì nên nhờ sức Bi nguyện của đức A Di Đà để vãng sanh Cực Lạc. Chí tâm niệm Phật mà không được về Tịnh-độ, lão Tăng xin chịu đọa địa ngục Bạt Thiệt (ngục rút lưỡi).

Chân Yết Liễu thiền sư, trong bài văn khuyên tu Tịnh-độ, có nói: “Tại sao người trong tông Tào Động, ngoài sự tập Thiền, còn tu Tịnh-độ? Vì pháp môn niệm Phật là con đường tắt, ngoài sự tiếp dẫn bậc thượng thượng căn còn thâu nhiếp hạng người trung hạ. Vào được môn này, tức có thể vào được vô lượng pháp môn khác”.

Đến như các Thiền sư: Thiên Y Hoài, Viên Chiếu Bản, Từ Thọ Thâm, Nam Nhạc Tư, Pháp Chiếu, Tịnh Yết, Tịnh Từ Đại Thông, Thiên Thai Hoài Ngọc, Lương Đạo Trân, Đường Đạo Xước, Tỳ Lăng Pháp Chân, Cô Tô Thủ Nạp, Bắc Nhàn Giản, Thiên Mục Lễ, những đại lão ấy là bậc tông tượng trong Thiền môn, song xét ra chỗ hiển hóa đều phát dương ý chỉ Tịnh-độ. Ngài Bá Trượng Hoài Hải thiền sư là đích tử của Giang Tây Mã Tổ. Những tòng lâm trong thiên hạ đều y theo cách thức của Ngài mà kiến lập. Thanh quy ở khắp Thiền môn đều y theo pháp chế của Ngài mà cử hành. Từ xưa đến nay không ai dám có lời thị phi và trái với pháp chế ấy. Theo thanh quy của Ngài, thì nghi thức tụng cầu cho những vị Tăng bệnh nặng, có lời văn như sau: “Phải nhóm chúng lại, tất cả đồng tụng bài kệ tán Phật A Di Đà, rồi cao tiếng niệm Nam mô A Di Đà Phật, hoặc trăm câu, ngàn câu. Khi niệm xong, hồi hướng phục nguyện rằng: Nếu các duyên chưa mãn, sớm được an lành. Như hạn lớn đến kỳ, sanh về An dưỡng”. Đó chẳng phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh-độ hay sao?

Lại trong nghi thức đưa những vị Tăng đã tịch, có đoạn nói: “Đại chúng đồng niệm A Di Đà Phật, hồi hướng phục nguyện rằng: Thần siêu cõi Tịnh, nghiệp dứt đường trần, thượng phẩm sen nở hiện kim thân, nhất sanh Phật trao phần quả ký”. Đó không phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh-độ hay sao?

Đến như lúc trà tỳ, trong Thanh quy lại dạy: Vị Duy na chỉ dẫn khánh niệm Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật mười lần, đại chúng đồng xướng họa theo. Khi xướng xong, lại hồi hướng rằng: “Trước đây xưng dương mười niệm, phụ giúp vãng sanh”. Đó không phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh-độ hay sao?

Nhân đó tôi lại chợt hiểu chỗ lập pháp của Tổ Bá Trượng tất có thâm ý nhiệm mầu

Nay ông ở tòng lâm, thân đã đưa không biết bao nhiêu vị Tăng quy tịch, tai cùng miệng đã nghe và xướng không biết bao nhiêu lần mười niệm, ý đã chuyên chú hồi hướng về Tịnh-độ lại không biết bao nhiêu lần nữa! Thế mà ông đã không hiểu ý Tổ sư, đã không phát lòng thức tỉnh, lại lầm bảo: Những bậc ngộ đạt không nguyện vãng sanh. Quả thật cái bệnh cố chấp trong thiên hạ, không còn ai hơn ông được.

4. HỎI: Thường nghe nói: “Di Đà bản tánh, Tịnh-độ duy tâm”. Nay xem kinh luận về tông này, thì Tịnh-độ là miền Cực Lạc ngoài mười muôn ức cõi, Di Đà là vị Giáo chủ ở Liên bang. Như vậy thì ngoài nghĩa lý duy tâm bản tánh rồi! Thế là ý chỉ gì?

ĐÁP: Ông không biết rằng chân tâm của ông rộng rãi và sáng suốt vô cùng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Những non sông đất liền cho đến hư không ở ngoài sắc thân ta, đều là cảnh vật trong chân tâm mầu sáng”. Lại nói: “Các pháp sanh hóa, đều là hiện cảnh của duy tâm”. Thế thì đâu có cõi Phật nào ngoài tâm ta ư? Cho nên ý nghĩa của Tịnh-độ duy tâm là nói cõi Tịnh-độ ở trong chân tâm của ta, như biển cả nổi lên vô lượng bóng bọt, mà không có bóng bọt nào ở ngoài biển cả. Lại như những hạt bụi nơi đất liền, không có hạt bụi nào chẳng phải là đất, cũng như không có cõi Phật nào chẳng phải là tâm. Nên Tiên Thánh đã nói: “Chỉ một tâm này có đủ bốn cõi là: Phàm Thánh Đồng Cư, Phương Tiện Hữu Dư, Thật Báo Vô Chướng Ngại và Thường Tịch Quang”.

Cõi Phàm Thánh Đồng Cư có hai: Đồng Cư Tịnh-độ và Đồng Cư uế độ.

Đồng Cư uế độ như cõi Ta Bà, phàm Thánh ở chung. Phàm và Thánh đều có hai hạng. Hai hạng phàm là ác (bốn thú) và thiện (trời người). Hai hạng Thánh là Thật Thánh và Quyền Thánh. Thật Thánh là bốn đạo quả, Bích Chi Phật, thất Địa trong Thông giáo, thập Trụ trong Biệt giáo, thập Tín hậu tâm trong Viên giáo. Những vị này thông-hoặc đã dứt tuy sắc thân quả báo hãy còn, nên đều gọi là “Thật”. Quyền Thánh là Phật, Bồ-tát vì lợi lạc kẻ hữu duyên ứng sanh vào cõi Đồng Cư. Cảnh cư trú, về phần khí thế giới có hầm hố, gai góc, bùn đất, cùng các tướng nhơ nhớp. Về phần hữu tình giới có bốn ác thú, nên gọi là “uế độ”.

Đồng Cư Tịnh-độ như cõi Cực Lạc, tuy y báo chánh báo trang nghiêm mầu nhiệm, không bốn ác thú, song như kinh nói: “Người phạm tội nặng, lâm chung chí tâm sám hối và niệm Phật đều được vãng sanh”. Do đó nên biết cõi này gồm có chúng sanh còn hoặc-nhiễm. Thế giới Cực Lạc cũng có hai hạng Thánh cư Quyền và Thật.

Cõi Phương Tiện Hữu Dư là chỗ ở của bậc Nhị thừa và Bồ-tát đã chứng phương tiện đạo. Những vị này do tu hai môn quán, dứt thông-hoặc, phá trần sa, bỏ thân phận đoạn thọ thân pháp tánh, tự tại ở ngoài ba cõi. Vì chưa đoạn biệt-hoặc vô minh, còn biến dịch sanh tử nên gọi là Hữu Dư.

Cõi Thật Báo Vô Chướng Ngại không có Nhị thừa, chỉ thuần Phápthân Bồ-tát đã phá từng phần vô minh, chứng từng phần pháp tánh, được quả báo chân thật, nên cũng gọi là Quả Báo Độ. Kinh Nhân Vương nói: “Ba Hiền mười Thánh trụ Quả Báo Độ”. Sở dĩ gọi “Thật Báo”, vì các Đại sĩ quán thật tướng, phát chân vô lậu, trở về sống với chân tánh của mình. Gọi “Vô Chướng Ngại”, vì tu chân-không định, sắc cùng tâm không ngăn ngại lẫn nhau. Trong kinh Hoa Nghiêm thuyết minh thế giới Nhân-đà-la-võng, chính là cảnh này.

Cõi Thường Tịch Quang là chân lý pháp giới như như, sáng suốt cùng cực của bậc Diệu giác. Đây là Phật tánh chân như, tức độ là thân, tức thân là độ, thân và độ không hai, là trụ xứ của đức Tỳ Lô Giá Na, cũng gọi là Pháp Tánh Độ. “Thường” là đức Pháp-thân, “Tịch” là đức Giải thoát, “Quang” là đức Bát Nhã. Như chữ Y (ooo) có ba điểm, không thể cách lìa, một tức là ba, ba nguyên vẫn một. Đây cũng gọi là bí mật tạng, là cảnh giới du hóa của Như Lai, cứu cánh chân thường, thanh tịnh cùng cực.

Hai cõi trước là chỗ ở của Ứng-thân Phật. Cõi thứ ba cũng thuộc về Ứng, cũng thuộc về Báo, mà chính thức là chỗ ở của Báo-thân Phật. Cõi thứ tư là chỗ ở của Phápthân Phật.

Bốn cõi trên đây tùy theo chỗ tu chứng mà phân chia, song kỳ thật vẫn là một. Cho nên chân tâm bao trùm muôn tượng. Vô biên quốc độ như vi trần ở khắp mười phương, chính là cảnh giới trong tâm ta. Hằng sa ba đời chư Phật, cũng trong tâm ta. Thế thì miền Cực Lạc ngoài mười muôn ức cõi, há chẳng phải là cảnh Tịnh-độ của Duy Tâm ư?

Thế giới Cực Lạc đã như thế, thì vị Giáo chủ ở cõi ấy cũng là đức Di Đà của bản tánh. Nên biết chỉ một tâm này bao trùm đủ mười giới, thân và độ dung thông, trùng trùng không ngại. Lại nên biết tâm, Phật, chúng sanh, ba chính là một, đồng thể không khác nhau, sanh và Phật hỗ hiện, mỗi niệm giao tham. Cho nên Cổ đức nói: “Chúng sanh trong tâm chư Phật, mỗi trần đều là Cực Lạc. Chư Phật trong tâm chúng sanh, mỗi niệm chính thật Di Đà. Mười phương tịnh uế gom về trong khoảng sát na. Một niệm sắc tâm, bủa khắp gồm thâu pháp giới”. Xem thế thì biết tất cả đều sẵn đủ trong thể thiên chân, không phải do duyên khởi mới thành lập. Một tâm niệm đã như thế, một điểm trần lại khác chi? Vì vậy nên mới có thể:

Trong mỗi mỗi trần tất cả cõi.

Trong mỗi mỗi tâm tất cả tâm.

Mỗi mỗi tâm trần lại khắp nhau.

Trùng trùng không tận, không chướng ngại.

Đồng thời hiện rõ không ẩn hiển.

Tất cả viên thành chẳng kém hơn.

Cảnh giới chân tâm bao hàm vô biên quốc độ trên đây, như lưới báu thiên châu của trời Đế Thích. Bóng và ánh sáng của bao nhiêu hạt châu đều gom hiện vào một hạt châu. Bóng và ánh sáng của một hạt châu lại hiện khắp vào tất cả các hạt châu khác. Tuy mỗi mỗi hạt châu giao hiện lẫn nhau, nhưng hạt châu này không thể là hạt châu kia, hạt châu kia không thể là hạt châu này, xen mà không tạp, lìa mà chẳng phân, mỗi mỗi khắp bày, vẫn không sở tại! Thế giới Cực Lạc cũng như một trong các hạt châu. Nói tinh tế hơn, khắp mỗi cõi từ tam thừa Thánh nhơn cho đến trời, người, Tu-la, súc sanh, ngã quỷ, địa ngục, mỗi mỗi lại cũng như một trong các hạt châu. Và đức A Di Đà cũng là một trong các hạt châu. Cho nên, thấy một vị Phật, tức thấy mười phương chư Phật mà cũng là thấy chín giới chúng sanh ở khắp mười phương. Cõi Phật vô biên, mười phương kim cổ, toàn thể là một hải ấn đốn viên, không còn pháp chi khác nữa!

Như thế thì: Thần trải qua mười muôn ức cõi, chính hóa sanh trong bản tâm ta. Chất gởi nơi chín phẩm hoa sen, há cách biệt ngoài chân như Phật? Những lời dẫn giải trên đây đều là những minh huấn của Phật Tổ, Thánh Hiền đã tuyên dương. Hiểu được lý này tất sẽ thấy thế giới Cực Lạc là duy tâm, mỗi cõi Phật, mỗi điểm trần đều là duy tâm. Đức Di Đà là bản tánh, mỗi vị Phật, mỗi chúng sanh cũng đều là bản tánh.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.

Categories

open all | close all
Truyện Phật Giáo - Đại Tạng Kinh - Buddhasutra.net - Download - Nghe Mp3 - Pháp Âm Mp3 - Pháp Âm Tịnh Độ - Chinese Buddhism - Tripitaka Koreana - Taishō Tripiṭaka - Tibet Tipiṭaka - Pāḷi Tipiṭaka - Qianlong Tripitaka - 乾隆大藏經 - Tipiṭaka (Pāli), Tripiṭaka (Sanskrit: त्रिपिटक) - Kinh Nikaya mp3 1 - Kinh Nikaya mp3 2 - Video Pháp Âm 1 - Video Pháp Âm 2 - Chùa Khai Nguyên - Phật Sự Tản Viên - Phật Sự Thủ Đô - In Kinh Sách Tản Viên - Tìm mua sách in