HT. THÍCH THIỀN TÂM
Tỳ-kheo-ni HẢI TRIỀU ÂM toát yếu
LỜI NÓI ĐẦU
Có người cho rằng Tịnh-độ giáo thuộc về hành môn không phải lý môn, nghĩa là đức Thích Ca chỉ trần thuật cảnh Cực Lạc rồi khuyên người niệm Phật để cầu sanh, không thiệp đến phần lý thuyết. Nhưng thật ra, trong hành, tức đã có ẩn phần giáo lý. Chẳng hạn như bên Thiền tông, tuy chỉ dạy tham một câu thoại đầu, nhưng trong ấy đã hàm ẩn vô biên đạo lý. Tịnh-độ tông cũng thế, một câu niệm Phật gồm cả Thiền, Giáo, Luật, Mật nên Cổ đức đã phán định pháp môn này thuộc về Đốn giáo. Và Ngẫu Ích đại sư – một vị đích truyền thuộc phái Thiên Thai – cũng bảo: “Một câu Phật hiệu, bao nhiêu công án của Thiền tông và đạo lý cực diệu của Giáo môn đều ở trong đó”.
Để chứng minh câu niệm Phật hàm đạo lý nhiệm mầu, và giải mối nghi cho những vị tìm hiểu cùng hành trì về môn này, bút giả xin phiên dịch quyển Thập Nghi của ngài Trí Giả, tập Hoặc Vấn của ngài Thiên Như, họp lại tạm lấy nhan đề là Tịnh Độ Quyết Nghi Luận.
Học giả có thể đặt niềm tin tưởng nơi cổ huấn, mà mở đường vào Tịnh-độ huyền môn.
Liên Du
TỊNH ĐỘ THẬP NGHI LUẬN
Đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả Đại sư soạn
I. HỎI: Chư Phật Bồ-tát lấy Đại bi làm sự nghiệp. Chúng ta xa rời chúng sanh, tự sống riêng một cuộc đời yên ổn, có phải là thiếu lòng từ bi, chuyên lo tự lợi và trái với đạo Bồ-đề chăng?
ĐÁP: Bồ-tát có 2 hạng:
Nếu nhân bố thí, trì giới, tu phước được làm bậc quyền quý, mấy ai không mê đắm cảnh giàu sang, buông lung trong trường dục lạc?
Lúc đó dù thiện tri thức khuyên bảo, họ cũng không tin. Lại vì muốn thỏa mãn lòng tham dục, nương quyền thế sẵn có, gây nhiều tội nghiệp. Chết rồi, đọa tam đồ trải vô lượng kiếp. Được làm người, phải thọ thân bần tiện. Nếu không gặp thiện tri thức lại mê lầm gây tội ác rồi bị đọa nữa.
Kinh Duy Ma cũng nói: “Chính bệnh của mình còn không tự cứu được, đâu có thể cứu bệnh cho kẻ khác”.
Luận Trí Độ cũng nói: “Ví như hai người, mỗi kẻ đều có thân nhân bị nước lôi cuốn. Một người tánh gấp nhảy ngay xuống nước, nhưng vì thiếu phương tiện nên bị đắm chìm. Một người sáng tỉnh hơn, vội lấy thuyền bơi ra cứu được. Bậc Bồ-tát mới phát tâm vì chưa đủ nhẫn lực nên không thể cứu chúng sanh, cũng như người trước. Những vị đã chứng Vô sanh nhẫn, mới có thể nhập thế, cứu độ vô lượng chúng sanh, cũng như người sau. Như trẻ thơ không nên rời mẹ. Nếu rời mẹ, thì hoặc rơi vào hầm giếng, té xuống sông đầm, hoặc đói khát mà chết. Lại như chim non chưa đủ lông cánh, chỉ có thể nhảy chuyền theo cành cây, đợi chừng nào lông cánh đầy đủ, mới có thể bay xa, thong thả vô ngại. Phàm phu không nhẫn lực, chỉ nên chuyên niệm Phật A Di Đà cho được nhất tâm. Đợi khi Tịnh nghiệp thành tựu, lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sanh. Chứng quả Vô sanh rồi, chừng ấy sẽ cưỡi thuyền Pháp nhẫn, vào biển luân hồi, mặc ý làm vô biên Phật sự.
Cho nên bậc Bi tâm hành giả, muốn giáo hóa địa ngục, vào biển trầm luân, nên chú ý đến nhân duyên cầu sanh Tịnh-độ.
II. HỎI: Thể của pháp là không, xưa nay vẫn vô sanh và bình đẳng. Bỏ Ta Bà cầu Cực Lạc, há chẳng trái lý ư?
ĐÁP: Kinh Lăng Nghiêm nói: “Mê muội thành hư không. Trong hư không tăm tối kết ám thành sắc. Nên biết tất cả vọng thân, vọng tâm, vọng cảnh, núi sông, thế giới, đều là vật hiện trong diệu minh chân tâm”. Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: “Nhất thiết duy tâm tạo”. Như vậy vạn pháp đều lấy chân tâm làm thể. Vạn pháp có sanh có diệt nhưng chân tâm vô sanh. Người thấu đạt chân tâm bản tánh gọi là đã chứng Vô sanh.
Thân người có sanh có diệt nhưng xét kỹ sanh–thể thật không? Chỉ do bảy đại giả hiện. Thể chất thật của cả bảy đại đều là chân tâm bản tánh thường trụ diệu minh.
Cũng như mặt biển đầy sóng. Nhưng quan sát kỹ, sóng sanh sóng diệt chẳng thật có. Thể chất thật của sóng là nước. Nước không biến đổi.
Vọng thân, vọng cảnh ví như sóng. Chân tâm ví như nước. Bao nhiêu sanh diệt đều từ vô sanh mà ra.
Người đã biết nước thì ở sóng nào cũng thấy toàn là nước. Ngoài nước không có sóng. Người này ở trong sanh diệt vẫn vô sanh. Đã chứng nhận được tánh Vô sanh thì ở Ta Bà hay Cực Lạc vẫn vô sanh. Cũng như sóng 1 hay sóng 2 đều là nước.
Chỉ có điều là người mới ngộ được tánh Vô sanh nhưng chưa thật chứng, còn chập chờn ở đêm dài vô minh. Ngài Anan gọi là sốt rét cách nhật, nghĩa là chợt tỉnh chợt mê. Người này gấp gấp mau phải xa lìa Ta Bà cầu về Cực Lạc. Vì Ta Bà là trợ nhân sanh tử mãnh liệt, Cực Lạc là trợ nhân Bồ-đề có một không hai.
Còn những bậc đã thật chứng Vô sanh thì hẳn thong thả vô ngại. Nhưng đã gọi là vô ngại thì ngại gì mà chẳng du hí một phương, nói chi một cõi Cực Lạc. Đâu cần cứ phải khư khư cố chấp vô sanh. Các đại Bồ-tát trang nghiêm Tịnh-độ, cứu vớt khắp loại hữu tình, chính nhờ diệu dụng của vô sanh.
III. HỎI:
a. “Muốn cầu Tịnh-độ, trước phải tịnh tâm. Tâm thanh tịnh, cõi Phật mới thanh tịnh”. Cầu sanh Tịnh-độ cũng là chẳng trái lý này ư?
b. Tất cả cõi Tịnh-độ của chư Phật ở mười phương công đức đều bình đẳng, sao nay lại riêng cầu Tịnh-độ của một đức Phật? Như thế chẳng trái với lý bình đẳng ư?
ĐÁP:
IV. HỎI: Thế thì người tu sao không tùy ý niệm một đức Phật, tùy nguyện cầu sanh về một Tịnh-độ nào khác, hà tất ai cũng phải niệm đức A Di Đà, cầu sanh về Cực Lạc ư?
ĐÁP: Phàm phu vô trí phải theo lời Phật dạy, chẳng nên tự chuyên. Đức Thích Ca Thế Tôn một đời thuyết pháp, hằng khuyên chúng sanh niệm Phật A Di Đà cầu sanh về thế giới Cực Lạc (kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Phật Thuyết A Di Đà, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm…). Chẳng những các kinh, mà trong các luận, chư Bồ-tát, Tổ sư đều bảo nên cầu sanh về Cực Lạc.
Lại nữa, đức Phật A Di Đà có 48 đại bi nguyện lực tiếp độ chúng sanh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Phật A Di Đà có 84.000 tướng, mỗi tướng có 84.000 vẻ đẹp tùy hình, mỗi vẻ đẹp phóng ra 84.000 tia sáng soi khắp pháp giới, nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật không rời bỏ. Chúng sanh niệm danh hiệu Ngài, cơ cảm tương ưng, quyết định sẽ được vãng sanh”. Các kinh: Phật Thuyết A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Cổ Âm Vương Đà La Ni đều nói: Khi đức Thích Ca thuyết kinh, hằng hà sa chư Phật ở mười phương, đều hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp cõi đại thiên, để chứng thật rằng nếu chúng sanh nào niệm Phật A Di Đà, tất sẽ nương nhờ đại bi nguyện lực của Ngài, quyết định được sanh về thế giới Cực Lạc.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trong thời mạt pháp, khi các kinh khác đã diệt hết, chỉ còn kinh này lưu trú ở đời 100 năm, tiếp độ hữu tình vãng sanh về cõi kia”. Đây là điểm chứng minh Phật A Di Đà đối với chúng sanh ở cõi trược này có đại nhân duyên.
V. HỎI: Phàm phu nghiệp ác sâu dày, nặng nề phiền não, hoặc-chướng muôn phần. Chút ít công đức tu hành chưa vơi được một. Làm sao vãng sanh về Cực Lạc là cõi đệ nhất thanh tịnh trang nghiêm?
ĐÁP:
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận nói: Có 2 lối tu:
VI. HỎI: Đã là cụ phược phàm phu, dù sanh về cõi Cực Lạc, hẳn phiền não ác kiến thường nổi lên. Làm sao gọi là: “Vượt hơn ba cõi, lên ngôi Bất thoái”?
ĐÁP: Người đã được sanh về Tây phương, dù là cụ phược phàm phu, cũng không khi nào khởi phiền não ác kiến, bởi có 5 nhân duyên:
VII. HỎI: Di Lặc Bồ-tát là bậc Nhất sanh bổ xứ, hiện ở cung trời Đâu Suất, Ngài sẽ kế vị đức Thích Ca mà thành Phật trong tương lai. Vậy nên tu Thượng phẩm thập thiện, cầu sanh về nơi đó để được diện kiến Ngài. Đợi đến khi Bồ-tát giáng thế thành Phật, ta cũng theo Ngài mà hạ sanh. Trong 3 hội Long Hoa tất sẽ được chứng Thánh quả. Cần chi cầu về Tây phương Tịnh-độ?
ĐÁP: Cầu về Đâu Suất và cầu về Tây phương có sự hơn kém rất xa:
1- a) Tu thập thiện, chưa chắc đã được sanh về Đâu Suất. Vì kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Hành giả phải tu các môn tam muội, đi sâu vào chánh định, mới được sanh lên Nội viện Thiên cung”.
b) Di Lặc Bồ-tát không phát nguyện tiếp dẫn. Còn bản nguyện của đức A Di Đà là nhiếp thủ và tế độ những chúng sanh niệm Phật. Phương tiện này rất giản dị, hành giả chỉ cần niệm Phật A Di Đà, cơ cảm hợp nhau, liền được vãng sanh. Như ở thế gian chiêu mộ người, nếu kẻ nào muốn gia nhập thì cơ hội hợp nhau, liền thành sự việc.
2- Đâu Suất Thiên cung còn ở Dục giới, nên kẻ thoái vị rất nhiều. Còn có nữ nhân gây tăng thượng duyên cho tâm trước-nhiễm. Sao bằng cõi Cực Lạc, cây chim tuyên diệu pháp, gió nhạc diễn Bồ-đề, chúng sanh nghe rồi phiền não tiêu tan, đạo tâm tăng tiến? Cõi Tịnh-độ của Phật A Di Đà, chỉ thuần pháp lữ đại thừa thanh tịnh, phiền não ác nghiệp không thể phát khởi, như thế làm sao hành giả không mau chứng quả vị Vô sanh?
Đến như sự gặp Phật Di Lặc được chứng Thánh quả, cũng đã chưa chắc! Như khi đức Thích Ca còn tại thế, biết bao nhiêu chúng sanh thấy Phật, mà vẫn không được chứng Thánh quả? Riêng Tịnh-độ của Phật A Di Đà, chỉ được sanh về, quyết sẽ chứng Vô sanh pháp nhẫn, không một kẻ nào còn đọa trở lại tam giới, bị nghiệp sanh tử buộc ràng.
Lại nghe Tây Vức Truyện nói: Ba Bồ-tát Vô Trước, Thế Thân, Sư Tử Giác thâm tu thiền định, quyết sanh về Đâu Suất, cùng nhau ước hẹn: Ai sanh nội viện thấy đức Di Lặc trước, phải trở về báo tin cho huynh đệ biết. Ngài Sư Tử Giác quy tịch trước, trải qua thời gian khá lâu, không trở lại báo tin. Kế đó ngài Thế Thân vô thường. Ba năm sau mới trở lại: “Lễ kiến đức Di Lặc, nghe pháp, đi nhiễu ba vòng rồi trở xuống đây liền. Vì một ngày đêm ở Đâu Suất bằng 400 năm hạ giới, nên hóa ra em về trễ”. Vô Trước hỏi: “Sư Tử Giác hiện ở đâu?”. Thế Thân đáp: “Sư Tử Giác bị lạc vào Đâu Suất ngoại viện, say đắm ngũ dục, nên chưa được thấy đức Di Lặc”.
VIII. HỎI: Chúng sanh từ vô thủy tạo vô lượng tội, đời nay lại gây thêm nhiều nghiệp ác. Như thế làm sao lâm chung 10 niệm thành tựu, liền được vãng sanh?
ĐÁP: Kẻ ấy đã có túc thiện nghiệp. Nếu chẳng thế thì thiện tri thức còn không được gặp, huống chi là thành tựu 10 niệm? Như ông cho rằng ác nghiệp từ vô thủy là nặng, 10 niệm khi lâm chung là nhẹ, tôi xin giải thích:
IX. HỎI: Thế giới Cực Lạc cách đây 10 muôn ức cõi Phật, hạng phàm phu yếu kém làm sao có thể đi đến? Lại, trong Luận Vãng Sanh nói: “Người nữ, kẻ căn thiếu. Nhị thừa chủng không sanh”. Đã có lời ấy thì người nữ và kẻ sáu căn không toàn vẹn chắc là không được vãng sanh?
ĐÁP: Thế giới Cực Lạc cách đây 10 muôn ức cõi Phật, là đối với tâm lượng của nhục nhãn phàm phu ở trong nẻo luân hồi mà nói. Tịnh nghiệp đã thành tựu, thì tâm niệm Phật khi lâm chung, chính là tâm thọ sanh về Tịnh-độ. Vừa động niệm liền vãng sanh. Vì thế trong Quán Kinh nói: “Cõi nước của Phật A Di Đà cách đây không xa”. Lại nghiệp lực không thể nghĩ bàn, ngay đương niệm tự thấy mình ở cõi Phật. Ví như người nằm mơ, thân tuy ở giường, mà tâm đi khắp các nơi. Sự sanh về Tịnh-độ đại để cũng như vậy. Vì đi bằng tâm nên không ngại đường xa. Cứ nghĩ tới là ở đấy rồi.
Còn câu: “Người nữ, kẻ căn thiếu. Nhị thừa chủng không sanh” là ý nói người nữ khi sanh về Cực Lạc sẽ chuyển nữ thành nam, kẻ căn thiếu lúc về đó các căn sẽ đầy đủ. Ai ai cũng đều 32 tướng tốt. Nếu người nữ cùng kẻ căn thiếu không được vãng sanh thì bà Vi Đề Hy và 500 thị nữ đâu được Phật thọ ký cho sanh về Cực Lạc? Thế nên, người nữ cùng kẻ đui điếc câm ngọng ở cõi này, nếu niệm Phật A Di Đà, đều được vãng sanh. Đến như hàng Nhị thừa, nếu chịu hướng về Đại thừa tin môn Tịnh-độ, nguyện về Cực Lạc, niệm Phật A Di Đà, quyết định được vãng sanh. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Pháp Tạng Tỳ-kheo, tiền thân của Phật A Di Đà đã phát nguyện rằng: “Như tôi đắc quả Vô thượng giác, tất cả người nữ trong mười phương thế giới nhàm chán thân nữ, xưng danh hiệu tôi, nguyện kiếp sau không thọ nữ tướng. Nếu chẳng toại ý, tôi thề không thành Phật”.
Tóm lại, hai câu trên đại ý chỉ luận ở cõi Cực Lạc không có người nữ, kẻ căn thiếu, cùng hạng chủng tử Nhị thừa mà thôi.
X. HỎI: Phải làm những nghiệp gì và lấy chi làm chủng tử để được sanh về Cực Lạc? Có gia đình, không đoạn dâm dục có được sanh về cõi kia chăng?
ĐÁP: Muốn sanh về Tây phương phải đủ 2 hạnh: yếm ly và hân nguyện.
Hành giả cần quán bảy pháp bất tịnh:
Thường quán sát bảy điều ấy ở các thân nam nữ mà người đời cho rằng xinh đẹp, để sanh niệm yếm ly. Mỗi ngày phải tập cửu tưởng quán:
Phát nguyện cầu vĩnh viễn thoát ly thân nam nữ mê nhiễm, tạp thực, không sạch của ba cõi, để được thân pháp tánh Tịnh-độ. Trên đây là đại lược về yếm ly môn.
B. Hân nguyện, đại khái có hai:Nhận rõ mục đích cầu sanh: