• Danh sách
  • Thể loại
    • 5 Periods of Buddha’s teachings - Ngũ Thời Giáo
    • A Basic Buddhism Guide
    • Accounts of Request and Response
    • Activities
    • Agama - Thời Kỳ A Hàm
    • Ấn Quang Đại Sư
    • Avatamsaka Period - Thời Kỳ Hoa Nghiêm
    • Basic Teachings
    • Bộ A Hàm
    • Buddhist Education in China
    • Buddhist Scriptures
    • Buddhist Scriptures
    • Buddhist Studies
    • Buddhist Sutras
    • Cao Tăng Quảng Khâm
    • Changing Destiny
    • Chinaese
    • Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 2
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 3
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 4
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 5
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 6
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 7
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 8
    • Chư Tổ - Cao Tăng
    • Chưa phân loại
    • Collected Talks
    • Contact
    • Cư Sĩ Lưu Tố Vân
    • Cultivation
    • Cultivation Hall
    • Cultivation Hall Rules
    • Curriculum
    • Daily Living
    • Dharma
    • Đại Đức Thích Đạo Thịnh
    • Đại sư Hành Sách
    • Đại sư Liên Trì
    • Đại sư Ngẫu Ích
    • Đại Tạng Kinh
    • Đệ Tử Quy
    • Đệ Tử Quy
    • Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh Giảng Ký
    • Đọc sách ngàn lần
    • EBook .Doc - .PDF
    • Essence of the Infinite Life Sutra
    • Eyewitness Accounts
    • Founder
    • Giảng Giải Kinh Sách
    • Giảng Kinh
    • Giảng Kinh Địa Tạng
    • Giảng Kinh Địa Tạng lần 1
    • Giảng Ý Nghĩa Pháp Hội Quán Âm TTHN
    • Glossary
    • Guidelines for Being a Good Person
    • Hán văn - 古文 - Cổ Văn
    • History and Culture
    • Hòa Thượng Diệu Liên
    • Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
    • Hòa Thượng Tịnh Không
    • Hòa Thượng Tịnh Không Khai thị
    • Học Chữ Hán Việt
    • Học Tập Văn Hóa Truyền Thống
    • Indonesian Translation
    • Khoa Học
    • Kinh điển Bắc truyền
    • Kinh điển Hán tạng đã Việt dịch
    • Kinh điển Nam truyền
    • Kinh Tạng
    • Kinh Vô Lượng Thọ 1994
    • Kinh Vô Lượng Thọ lần 10
    • Kinh Vô Lượng Thọ lần 11
    • Lão pháp sư Thích Tịnh Không
    • Lão pháp sư Thích Tịnh Không
    • Learning
    • Lotus Nirvana - Thời Kỳ Pháp Hoa và Niết Bàn
    • Luận Tạng
    • Luật Tạng
    • Main
    • Main Thoughts
    • Mission
    • More...
    • Mr. Li Bingnan
    • Ms. Han Yin
    • Nghi Thức Tụng Niệm
    • Nhạc Niệm Phật
    • Nhạc Phật Giáo
    • Nhân Quả Báo Ứng
    • Online Study Guide
    • Phần mềm ứng dụng Phật Pháp
    • Pháp ngữ
    • Pháp Sư Ngộ Thông
    • Phật giáo nước ngoài
    • Phật Học Vấn Đáp
    • Phiên âm Hán Việt - 古Cổ 文Văn
    • Phim Phật Giáo
    • Phim Tài Liệu
    • PLLCA Library
    • Prajnã Period - Thời Kỳ Bát Nhã
    • Primary & Secondary
    • Professor Fang Dongmei
    • Pure Land Buddhism
    • Pure Land Organizations
    • Quốc tế
    • Resources
    • Retreat Application
    • Retreats
    • Sách
    • Sách nói Audio
    • Sách Văn Học PG
    • Six Harmonies
    • Six Paramitas
    • Stories
    • Sử Phật Giáo
    • Sutra Excerpts
    • Sutra Stories
    • Sutras Books
    • Symbolism
    • Tam tạng Kinh điển Sanskrit - PALI
    • Teachers
    • Teachings
    • Ten Attainments
    • Ten Great Vows
    • Ten Virtuous Karmas Sutra
    • Ten-recitation Method
    • Thái Thượng Cảm Ứng Thiên
    • The Buddhist World
    • The Supreme Buddha
    • Theo dấu chân Phật - Hành Hương Đất Phật
    • Thiên Hạ Phụ Tử
    • Three Conditions
    • Threefold Learning
    • Timelines
    • Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
    • Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014
    • Tịnh Tông Học Viện
    • Tổ Tịnh Độ Tông
    • Training in the Traditional Way
    • Training Procedure
    • Trần Đại Huệ
    • Trích Đoạn Khai Thị
    • Trích Yếu
    • Tripitaka - 大藏經
    • Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm
    • Truyện Phật giáo
    • Truyện thiếu nhi song ngữ
    • Truyện Tranh Phật Giáo
    • Tụng Kinh
    • Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng thuật
    • Vaipulya Period - Thời Kỳ Phương Đẳng
    • Vấn Đáp Phật Pháp
    • Văn Học
    • Venerable Master Chin Kung: Books
    • Video
    • Video Pháp Âm
    • Visiting
    • Zhangjia Living Buddha
    • 中國 - Zhōngguó - Chinese
    • 人物故事 - Renwu - Câu Chuyện Nhân Vật
    • 佛教故事 - fojiaogushi
    • 佛经故事 - Fojing - Câu chuyện Phật
    • 古Cổ 文VănViệt
    • 哲理故事 - Zheli - Câu chuyện triết học
    • 漫畫 - Comics - Truyện tranh
    • 生活故事 - Shenghuo - Câu chuyện cuộc sống
  1. Trang chủ
  2. Kinh sách
  3. Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh

  4. Quyển Thượng

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh

Quyển Thượng

Chương trước
Chương tiếp

PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA

VÔ LƯỢNG THỌ

TRANG NGHIÊM THANH TỊNH

BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH.

 

QUYỂN THƯỢNG

 

Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở trong núi Kỳ Sà Quật, nơi thành Vương Xá, cùng với chúng đại Tỷ Khiêu, một vạn hai nghìn người, đều là những bậc đại A La Hán, mọi lậu nghiệp đã hết, tâm đạt được tự tại, dứt sạch mọi phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt hết sự ràng buộc, khổ đau trong ba cõi. Những vị đại đệ tử, A La Hán đó là: A Nhã Kiều Trần Như tôn giả, Mã Thắng tôn giả, Đại Danh tôn giả, Hữu Hiền tôn giả, Vô Cấu tôn giả, Danh Văn tôn giả, Thiện Xưng tôn giả, Viên Mãn tôn giả, Kiều Phạm Ba Đề tôn giả, Ma Ha Ca Diếp tôn giả, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp tôn giả, Già Gia Ca Diếp tôn giả, Na Đề Ca Diếp tôn giả, Xá Lợi Phất tôn giả, Đại Mục Kiền Liên tôn giả, Ma Ha Ca Chiên Diên tôn giả, A Nâu Lâu Đà tôn giả, Kiếp Tân Na tôn giả, Ly Bà Đa tôn giả, Tất Lăng Già Bà Ta tôn giả, Bạc Câu La tôn giả, Ma Ha Câu Hi La tôn giả, Nan Đà tôn giả, Tôn Đà La Nan Đà tôn giả, Phú Lâu Na Di Na La Ni Tử tôn giả, Tu Bồ Đề tôn giả, A Nan tôn giả, La Hầu La tôn giả… những vị đại A La Hán ấy đều là những bậc đứng đầu trong chúng.        

Lại có các vị, đại Bồ tát là: Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, cùng với chúng đại Bồ Tát ở trong Hiền kiếp đồng đến Pháp hội.                                                         o                                                                                                 

      Lại có mười sáu vị, đại Bồ Tát tại gia đứng đầu trong chúng là: Hiền Hộ Bồ Tát, Thiện Tư Duy Bồ Tát, Tuệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trú Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Tuệ Bồ Tát, Nguyện Tuệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trú Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát, tất cả đều nương theo, hạnh nguyện của Phổ Hiền, an trụ trong chính pháp, đủ vô lượng hạnh nguyện, dùng các phương tiện khéo, đi khắp mười phương cõi, giáo hóa chúng quần sinh, khiến vào tạng Pháp Phật, rốt ráo đến bờ kia, đầy đủ các công đức, trong vô lượng thế giới, hiện thành bậc Chính Giác.                o                                                                                                                      

Cũng giống như đức Phật, rời nội viện Đâu Suất, giáng sinh vào cung vua, bỏ ngôi vị xuất gia, khổ hạnh mà tu đạo. Hiện thuận theo thế gian, đem sức định tuệ lực, hàng phục các ma oán, đắc vi diệu pháp môn, thành bậc Tối Chính Giác, được trời người kính ngưỡng.

Lại chuyển bánh xe pháp, giác ngộ chúng quần sinh, phá thành phiền não ác, lấp hố sâu tham dục, gột sạch mọi cấu uế, hiển bày đức thanh tịnh, điều phục các chúng sinh, tuyên thuyết vi diệu lý, và  tích công lũy đức, tu tạo các phúc điền, rộng độ các chúng sinh, lấy pháp dược cứu khổ, ban vui khắp ba cõi. Dùng các phép quán đỉnh, thụ ký đạo Bồ Đề, giáo hóa các Bồ Tát, nên làm A Xà Lê, biểu thị vô biên hạnh, thành thục mọi căn lành, cho các hàng Bồ Tát, nhiều như cát sông Hằng, được vô lượng chư Phật, khen ngợi và hộ trì.

Các vị Bồ Tát đó, ở trong vô biên cõi, đều có thể thị hiện, giống như nhà ảo thuật, biến ra các hình tướng, nhưng các hình tướng ấy, không phải là thật tướng. Bồ Tát cũng như vậy, thông đạt hết tính tướng, của tất cả chúng sinh, thường cúng dàng chư Phật. Vì dẫn dắt chúng sinh, hóa hiện ra các thân, mau như ánh điện chớp, phá tan lưới chấp tà, thoát khỏi dây ràng buộc, được tự do tự tại, vượt xa hàng Thanh Văn và Bích Chi- Độc Giác, chứng nhập sâu ba pháp: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Khéo lập các phương tiện, hiển bày ba thừa pháp. Đối với hàng trung hạ, thị hiện có diệt độ. Chứng đắc quả vô sinh, vào sâu trong thiền định, được vô lượng trăm nghìn, các pháp môn tổng trì. Trụ Hoa Nghiêm Tam Muội, thấy rõ vô lượng Phật, trong khoảng một sát na, đi khắp mười phương cõi, cúng dàng các đức Phật, và nghe nhận Chính Pháp, được vô ngại biện tài, của các đức Như Lai. Thấu hiểu các chúng sinh, khai hóa cho hết thảy. Ở trong cõi thế gian, tâm thường hành chính đạo, vượt các pháp hữu vi, trụ trong Chân Thật Đế, phổ độ chúng quần sinh, khắp mười phương thế giới. Đối với các sự vật, tùy ý được tự tại. Với các loài chúng sinh, thường làm bạn chẳng mời, để tùy duyên hóa độ, tâm bình đẳng chẳng chấp. Thụ trì tạng Pháp Phật, lưu truyền khắp các cõi, khiến hạt giống Như Lai, thường hằng chẳng đoạn dứt. Rộng phát tâm Bồ Đề, thương xót các chúng sinh, thường nói lời từ hòa, trao pháp nhãn thanh tịnh, đóng bít ba đường ác, mở cửa các đường lành. Đối với các chúng sinh, coi tựa như thân mình, gần gũi và giúp đỡ, một lòng mong độ thoát, khiến cho mau thoát khổ, đồng thành ngôi Chính giác. Thảy đều được vô lượng, đầy đủ các công đức, trí tuệ bậc Thánh minh, chẳng thể nghĩ bàn được.

Có vô lượng vô biên, các bậc đại Bồ Tát, trong khắp mười phương cõi, cùng đồng hàng như thế, vì muốn nghe Phật thuyết, tất cả đều hoan hỷ, chung vui đến Pháp hội.

Lại có năm trăm vị, là đại Tỷ Khiêu Ni, đều chứng A La Hán; Bảy nghìn vị cư sĩ, đứng đầu Ưu Bà Tắc; Năm trăm vị tín nữ, đứng đầu Ưu Bà Di, cùng với chúng chư Thiên, cõi Dục và cõi Sắc, cùng với cõi Phạm Chúng, đồng nhau đến Pháp hội.                 o                                                                                                                                                                                  

Bấy giờ đức Thế Tôn, hiện trăm nghìn sắc tướng, kim thân sáng đẹp đẽ, như là gương báu sạch, chiếu rõ tất cả pháp. Khi ấy ngài A Nan, thấy tướng lành như vậy, liền từ nơi tòa ngồi, cung kính mà đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, quỳ gối và chắp tay, tác bạch đức Phật rằng: kính bạch đức Thế Tôn! Hôm nay đức Thế Tôn, trụ vào đại tịch định, mọi căn đều tốt đẹp, sáng nghiêm tịnh bậc nhất, chúng con từ rất lâu, chưa được thấy tướng đó. Kính bạch bậc Đại Thánh! Lòng con tự nghĩ rằng: Hôm nay đức Thế Tôn, trụ vào nơi pháp nào, mà thâm sâu huyền diệu, thật chẳng thể nghĩ bàn; Hôm nay đức Thế Hùng, trụ vào chỗ trụ nào; Hôm nay đức Thế Nhãn, trụ vào hạnh nguyện nào; Hôm nay đức Thế Anh, trụ vào giáo pháp nào; Hôm nay đức Thiên Tôn, hành theo đức Phật nào, Phật quá khứ, hiện tại, hay là Phật vị lai, Phật Phật đồng một niệm, rộng độ các chúng sinh. Phải chăng đức Thế Tôn, hôm nay trong đại chúng, cũng giống các đức Phật, nên thị hiện như thế? Con không biết nguyên nhân, vì sao đức Thế Tôn, thị hiện các tướng tốt, sáng uy nghiêm chói lọi, cúi xin đức Thế Tôn, vì con phân biệt nói.           o                                                      

      Bấy giờ đức Thế Tôn, bảo với A Nan rằng: Lành thay! Này A Nan! Ông vì lòng thương xót, nghĩ cho khắp muôn loài, và muốn làm lợi ích, cho tất cả chúng sinh, nên nay mới thưa hỏi, điều thâm sâu như thế. Những lời Ông thưa hỏi, hôm nay rất thù thắng, hơn cả trăm vạn kiếp, thực hành hạnh bố thí, cúng dàng cho các bậc, La Hán, Bích Chi Phật, cùng hết thảy trời người, nhẫn đến cho các loài: bò, bay hay xuẩn động, trong khắp một thiên hạ. Vì sao lại như thế? Vì tất cả chúng sinh, ở đời mai sau này, đều do lời thưa hỏi, của Ông ngày hôm nay, mà đều được độ thoát.

A Nan ông nên biết! đức Như Lai thường vì, lòng đại bi vô tận, thương xót các chúng sinh, khắp sáu đường ba cõi, nên nay mới thị hiện, thành Vô Thượng Chính Giác, đem giáo pháp của Phật, để cứu vớt quần sinh, khiến hết thảy đều được, các lợi ích chân thật. Đức Như Lai là bậc, Chí Chân Đẳng Chính Giác, ở trong vô lượng kiếp, rất khó mà được gặp, cũng khó gặp ví như, hoa Ưu Đàm Bát La, trải qua bao kiếp số, mới thấy nở một lần. Lời thưa hỏi của Ông, hôm nay rất lợi ích, độ cho vô số ức, muôn loài các chúng sinh, đều sẽ được lên ngôi, Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

A Nan Ông nên biết! Trí Chính Giác Như Lai, rất khó thể suy lường, khắp trong cả mười phương, không gì ngăn ngại được. Nếu muốn trong một niệm, an trụ vô lượng kiếp, thân thể và các căn, không sinh cũng không diệt, thì phải khởi lòng tin, nơi đạo Vô Thượng Giác. A Nan Ông nên biết! Định, Tuệ của Như Lai, thật thâm sâu rộng lớn, thông đạt không cùng tận, đối với tất cả pháp, được tối thắng tự tại. A Nan hãy lắng nghe, và khéo tư duy kỹ, Ta nay sẽ vì Ông, mà rộng phân biệt nói.             o                                                                                                                                        

       Bấy giờ Đức Phật bảo: A Nan Ông nên biết, cách đây đã rất lâu, trải hằng hà sa kiếp, đời quá khứ về trước, có đức Phật xuất thế hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật-Thế Tôn. Đức Phật đó trụ thế, bốn mươi hai đại kiếp, vì các hàng trời người, mà giáo hóa cứu độ. 

       Bấy giờ có vị vua, tên Ngài là Thế Nhiêu, nghe Đức Phật thuyết pháp, sinh lòng đại hoan hỷ, mà phát Bồ Đề Tâm, vì cầu đạo Chính Chân, liền bỏ cả ngôi vua, theo Đức Phật xuất gia, làm vị đại Sa Môn, nghiêm trì các giới luật, hiệu Ngài là Pháp Tạng. Đức hạnh thật cao viễn, siêu vượt cả thế gian, đạt trí tuệ biện tài, được thâm giải đệ nhất. Lại có hạnh nguyện thù thắng và định tuệ tăng thượng, tâm kiên cố bất động, thường tu hành tinh tiến.

Ngay trong lúc bấy giờ, Ngài Pháp Tạng Tỷ Khiêu, đi tới trước đức Phật, nhiễu quanh về bên hữu, đỉnh lễ rồi quỳ gối, cung kính và chắp tay, dùng lời khen ngợi Phật, khen ngợi Phật xong rồi, lại dùng kệ tụng rằng:          o                                                                                                                                                                                                                   

Khuôn mặt hồng sáng chói,

Uy đức vô cùng cực.

Khỏa lấp cả không trung,

Mặt trời không sánh nổi.

Mặt trăng, Ma ni châu,

Cũng trở nên mờ tối.

Phật tuyên vi diệu pháp,

Vang khắp cả mười phương.

Giới, văn đều tinh tiến,

Tam muội và trí tuệ.

Uy đức vô cùng cực,

Cõi thế chẳng ai bằng.

Biển pháp của chư Phật,     

Rộng sâu rất nhiệm màu.

Đem thật trí xét xem,

Thấy rõ chỗ cội nguồn. 

Vô minh và dục vọng,

Đức Thế Tôn lìa hẳn.

Bậc Sư Tử Nhân Hùng,

Thần đức không thể lường.

Trí tuệ rất cao thâm,

Công huân thật rộng lớn.

Oai tướng rực sáng ngời,

Chấn động cả đại thiên.

Con nguyện khi thành Phật,

Bằng đấng Thánh Pháp Vương.

Dứt sạch đường sinh tử,

Đồng về nơi bờ giác.

Bố thí điều hòa vui,

Trì giới và Nhẫn nhục.

Tinh Tiến cùng Thiền Định,

Trí tuệ là bậc nhất.

Con thệ khi thành Phật,

Làm hết những nguyện này.

Tất cả điều sợ hãi,

Đổi thành chỗ an vui.

Giả như có trăm nghìn,

Muôn ức các đức Phật. 

Cùng các bậc đại Thánh,

Nhiều như cát sông Hằng.

Con cũng đều cúng dàng,

Những bậc đại Thánh đó.

Cũng không bằng cầu đạo,

Một lòng chẳng thoái lui.

Chí tinh tiến như thế,

Uy thần không lường được.

Con tới khi thành Phật,

Sửa sang các cõi nước.

Hơn các cõi Phật kia,

Cõi khác không thể sánh.

Chúng sinh trong cõi con,

Cũng tốt đẹp lạ thường.

Con nguyện thường thương xót,

Độ thoát cho tất cả.

Chúng sinh khắp mười phương,

Lòng mong cầu tinh tiến.

Đã đến nước con rồi,

Đều an lành vui vẻ.

Nay được Phật chứng minh,

Tâm thành thật của con.     

Nguyện xây cõi nước kia,

Sớm thành nơi cõi Tịnh.     

Nhờ tinh tiến tu hành,

Mười phương các đức Phật.

Trí tuệ sâu rộng biết,

Thấu rõ tâm hạnh con.

Cúi xin đức Thế Tôn,

Vì con mà diễn nói.

Hạnh lành các cõi Tịnh,

Của chư Phật Như Lai.

Con nghe hạnh đó rồi,

Quyết một lòng tu hành.

Cho viên thành sở nguyện,

Rộng độ các chúng sinh.

Dù thịt nát xương tan,

Chịu đựng nhiều kiếp khổ.

Vẫn gắng tâm nhẫn nhục,  

Nguyện chẳng để thoái lui.          o                        

Khi Pháp Tạng Tỷ Khiêu nói bài kệ ấy rồi, liền bạch với Đức Phật rằng: Kính bạch đức Thế Tôn! Con nay xin phát tâm, Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, nguyện được như Phật. Cúi xin đức Thế Tôn, vì con rộng nói pháp, con nguyện sẽ tu hành, cho tới khi thành Phật, dứt bỏ các gốc khổ, thành tựu pháp an vui, trang nghiêm cõi Tịnh Độ, giúp khắp các quần sinh. Nguyện khi con thành Phật, được trí tuệ sáng suốt, hào quang sáng chói rực, tiếng vang khắp mười phương, trời người đến súc sinh, sinh vào cõi nước con, đều thành bậc bất thoái, cho đến thành Chính giác. Con nay lập thệ nguyện, siêu thắng cõi Phật khác, kính bạch đức Thế Tôn, nguyện đó thành tựu không?                                            o                                                                                                                                                                                                         

Bấy giờ đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai nói với Tỷ khiêu Pháp Tạng rằng: Thí như có một người, muốn lường được nước biển, trải qua nhiều kiếp số, mãi có thể tính được. Nay Ông đã phát tâm, tinh tiến cầu chính đạo, siêu vượt cả thế gian, một lòng không dừng nghỉ, quyết định sẽ thành tựu, đạo vô thượng Chính giác. Nay ông tự suy nghĩ, tu tập phương tiện nào, thực hành hạnh nguyện nào, để trang nghiêm cõi Phật, những việc làm như thế, Ông hãy nên tự nhiếp. Khi ấy Pháp Tạng Tỷ khiêu bạch với Phật rằng: Kính bạch đức Thế Tôn! Việc ấy quá rộng sâu, tự con chẳng hiểu được, cúi xin đức Như Lai, bậc Ứng Chính Biến Tri, viên mãn muôn đức hạnh, hiện cõi Tịnh mười phương, cho con nghe và thấy, rồi con tự tư duy, thực hành tu tập khéo, một lòng chẳng thoái lui, đại thệ con như thế.                         o                                                                                                                                               

Bấy giờ đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, biết tâm nguyện Pháp Tạng, nên nói về công đức, rất trang nghiêm thanh tịnh rộng lớn của hai trăm mười ức cõi nước Phật, ứng tâm nguyện Pháp Tạng, trải qua nghìn ức năm. Khi Pháp Tạng Tỷ Khiêu, nghe Đức Phật nói rồi, liền phát đại thệ nguyện, thật vô thượng thù thắng, từ các cõi thiện ác, đến cảnh giới nhân thiên, các quốc độ tốt xấu, suy lường thật rốt ráo, chuyên tâm để lựa chọn, rồi kết thành đại nguyện. Một lòng cầu tinh tiến, kính cẩn để tu trì, tích tập các công đức, trải qua năm đại kiếp thực hành đạo Bồ Tát, nguyện ấy mới đầy đủ. Đại nguyện đầy đủ rồi, bèn kết lại thành một, liền ở nơi hai mươi mốt vô số cõi Phật, công đức thật trang nghiêm, thông suốt không chướng ngại.                                      

Khi tu tập xong rồi, lại đến đối ở trước, đức Thế Gian Tự Tại, cúi đầu và đỉnh lễ, rồi nhiễu Phật ba vòng, đứng chắp tay trang nghiêm, tác bạch đức Phật rằng: Kính bạch đức Thế Tôn! Hạnh của con đã thành, nguyện của con đã mãn, cõi Phật đã làm xong, rất trang nghiêm thù thắng, và thanh tịnh bậc nhất.

       Đức Phật liền khen rằng: Thật lành thay! Lành thay! Ông nay đã đến thời, nói cho khắp thế gian, được hiểu và được biết, đại chúng khi nghe rồi, sẽ được lợi ích lớn, và ở trong cõi đó, để dần dần tu tập, được thành tựu viên mãn, vô lượng đại thệ nguyện.

Ngay trong lúc bấy giờ, ngài Pháp Tạng Tỷ Khiêu, liền bạch Đức Phật rằng: Kính bạch đức Thế  Tôn! xin thương xót lắng nghe: Như chỗ sở nguyện con, nay con được nói hết:       o

       Đại nguyện lớn thứ nhất: Khi con được thành Phật, nếu cõi nước của con, mà còn có địa ngục, ngã quỷ và súc sinh, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Đại nguyện lớn thứ hai: Khi con được thành Phật, nếu các chúng Trời Người,  trong cõi nước của con, sau khi thọ mạng hết, lại còn phải đọa vào, ba đường ác tối tăm, thì con sẽ chẳng trụ,  ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Đại nguyện lớn thứ ba: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, thân chẳng có màu vàng, được đẹp đẽ như nhau, nếu còn có tốt xấu, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Đại nguyện lớn thứ tư: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, sắc tướng không đều nhau, nếu có người tốt xấu, chẳng đẹp đẽ như nhau, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Đại nguyện lớn thứ năm: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, chẳng đều tu chứng được, Túc Mệnh Thông biết rõ, tất cả các sự việc, của hết thảy chúng sinh, khắp mười phương thế giới, ở trong trăm nghìn ức, na do tha kiếp trước, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Đại nguyện lớn thứ sáu: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, chẳng được Thiên Nhãn Thông, ít nhất là thấy rõ, tất cả các sự vật, trong trăm nghìn muôn ức, na do tha cõi Phật, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Đại nguyện lớn thứ bảy: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, chẳng chứng được Thiên Nhĩ, ít nhất là nghe được, lời thuyết pháp của Phật, khắp trong trăm nghìn ức, na do tha cõi Phật, nếu chẳng được như thế, nghe hiểu và thụ trì, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

 Đại nguyện lớn thứ tám: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, chẳng được Tha Tâm Trí, ít nhất là biết rõ, tâm niệm các chúng sinh, ở trong trăm nghìn ức, na do tha cõi nước, khắp mười phương thế giới, quốc độ các Đức Phật, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Đại nguyện lớn thứ chín: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, chẳng được Thần Túc Thông, trong khoảng một niệm ngắn, ít nhất chẳng qua được, trăm nghìn muôn vạn ức, na do tha cõi Phật, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Đại nguyện lớn thứ mười: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, còn khởi một niệm tưởng, tham đắm chấp lấy thân, dù thân kia tốt đẹp, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện lớn thứ mười một: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, tâm chẳng thường an trụ, ở nơi Chính Định tụ, cho tới khi diệt độ, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện lớn thứ mười hai: Khi con được thành Phật, mà quang minh của con, nếu còn có hạn lượng, ít nhất chẳng chiếu được, trăm nghìn muôn vạn ức, na do tha cõi Phật, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện lớn thứ mười ba: Khi con được thành Phật, mà thọ mạng của con, nếu còn có hạn lượng, ít nhất chẳng thọ được, trăm nghìn muôn vạn ức, na do tha kiếp số, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện lớn thứ mười bốn: Khi con được thành Phật, chúng Thanh Văn đệ tử, ở trong cõi nước con, số nhiều đến vô lượng, nếu còn ai đếm được, dù đó là Duyên Giác, có trí tuệ thông minh, khắp đại thiên thế giới, trải qua trăm nghìn kiếp, nếu mà còn đếm được, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

 Nguyện lớn thứ mười lăm: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, chẳng được thọ mạng lâu, nếu còn có hạn lượng, trừ người có bản nguyện, tự ý muốn dài ngắn, thảy đều được tự tại, nếu không được như vậy, thọ mạng chẳng vô lượng, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện lớn thứ mười sáu: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, cho đến có một người, nếu mà còn nghe được, một lời nói xấu ác, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện lớn thứ mười bảy: Khi con được thành Phật, nếu vô lượng chư Phật, khắp trong mười phương cõi, nghe được Danh hiệu con, chẳng tán dương khen ngợi, khuyên xưng Danh hiệu con, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

 Nguyện lớn thứ mười tám: Khi con được thành Phật, nếu mười phương chúng  sinh, nghe Danh hiệu của con, dốc một lòng tin tưởng, muốn sinh về nước con, chỉ cần trong mười niệm, nếu không được sinh về, trong cõi nước của con, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác. Trừ những kẻ đại ác, tạo các tội ngũ nghịch, và hủy báng Chính Pháp, thì chẳng được sinh về.

Nguyện lớn thứ mười chín: Khi con được thành Phật, nếu mười phương chúng sinh, phát khởi Bồ Đề Tâm, tu các công đức lành, dốc một lòng phát nguyện, muốn sinh về nước con, đến khi mệnh chung thời, con không cùng Thánh chúng, hiện ra trước người đó, tiếp rước về cõi con, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

 Nguyện lớn thứ hai mươi: Khi con được thành Phật, nếu tất cả chúng sinh, trong khắp mười phương cõi, nghe Danh hiệu của con, nhớ nghĩ Quốc độ con, chuyên tu công đức lành, một lòng đem hồi hướng, muốn sinh về nước con, nếu người đó chẳng được, như sở nguyện của mình, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ hai mươi mốt: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Trời Người, trong cõi nước của con, chẳng chứng được đầy đủ, ba mươi hai tướng tốt, của các bậc Đại Nhân, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ hai mươi hai: Khi con được thành Phật, nếu có chúng Bồ Tát, ở khắp mười phương cõi, các quốc độ Phật khác, nguyện sinh về nước con, chẳng rốt ráo chứng được, quả vị Bất Thoái Chuyển, quả Nhất Sinh Bổ Xứ, trừ người có bản nguyện, muốn tự tại hóa hiện, đi khắp mười phương cõi, mặc áo giáp đại nguyện, chứa góp các công đức, hóa độ cho hết thảy. Tới lui các cõi Phật, chuyên tu hạnh Bồ Tát, cúng dàng khắp mười phương, các Đức Phật Như Lai, khai hóa hằng sa chúng, tu tập theo chính đạo, khiến cho đều chứng được, đạo Vô thượng Chính Giác. Thường hiện tu tập đức, hạnh nguyện của Phổ Hiền, nếu không được như vậy, không viên thành sở nguyện, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ hai mươi ba: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát trong cõi nước của con, nương sức thần của Phật, đi khắp mười phương cõi, cúng dàng muôn ức Phật, trong khoảng một bữa ăn, nếu chẳng thể đến được, khắp vô lượng trăm nghìn, hằng hà sa cõi Phật, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ hai mươi bốn: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát trong cõi nước của con, đối trước các Đức Phật, hiện ra công đức mình, muốn đầy đủ vật dụng, đem dâng để cúng dàng, nếu chẳng được như nguyện, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ hai mươi lăm: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát trong cõi nước của con, nếu chẳng thể thuyết được, tất cả Vi Diệu Pháp và Nhất Thiết Trí Pháp, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ hai mươi sáu: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát trong cõi nước của con, nếu chẳng tu chứng được, sắc thân bền chắc như, Kim Cương Na La Diên, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ hai mươi bảy: Khi con được thành Phật, có các chúng Trời Người, ở trong cõi nước con, có muôn nghìn vật dụng, hình sắc đẹp lạ kỳ, sáng thanh tịnh tốt tươi, đầy rẫy khắp cõi nước, đều nhiệm màu bậc nhất. Nếu có ai tính được, danh số các vật kia, dù cho dùng Thiên Nhãn, cũng không thể biết được, nếu không được như vậy, mọi thụ dụng tự tại, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ hai mươi tám: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát trong cõi nước của con, người ít công đức nhất, nếu không thể thấy được, hào quang sáng đẹp đẽ, nơi cây đại Bồ Đề, cao bốn trăm muôn dặm do tuần, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ hai mươi chín: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát ở trong cõi nước con, nếu có thiện nhân nào, đọc tụng và thụ trì, thuyết giảng các kinh pháp, mà chẳng mau chứng được, Trí Biện Tài Vô Ngại, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện lớn thứ ba mươi: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát trong cõi nước của con, đồng nhau đều chứng  được, Trí Tuệ Vô Ngại Biện, nếu còn có hạn lượng, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ ba mươi mốt: Khi con được thành Phật, trong cõi nước của con, sáng thanh tịnh trang nghiêm, chiếu soi khắp vô lượng, trăm nghìn muôn vạn ức, hằng hà sa cõi Phật, khắp mười phương thế giới, nhiều bất khả tư nghì, ví như gương báu sáng, chiếu rõ hết thảy vật, nếu không được như vậy, không rộng chiếu mười phương, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ ba mươi hai: Khi con được thành Phật, trong cõi nước của con, từ mặt đất trở lên, cho đến tận hư không, cung điện và lầu các, ao, nước, hoa, cây báu, cùng với các đồ vật, thảy đều dùng vô lượng, các thứ báu trang nghiêm, chung nhau hợp lại thành, vật kia tốt đẹp lạ, kỳ diệu hơn các cõi. Mùi hương thơm tỏa ngát, khắp cõi nước mười phương, chúng Bồ Tát ngửi được, mùi hương thơm lạ ấy, đều phát tâm Bồ Đề, tu hành theo hạnh Phật. Nếu không được như vậy, y báo chẳng trang nghiêm, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ ba mươi ba: Khi con được thành Phật, có các loài chúng sinh, ở khắp trong vô lượng, bất khả tư nghì cõi, các quốc độ chư Phật, khắp mười phương thế giới, nếu được quang minh con, chiếu đến chạm vào thân, thì khiến cho người ấy, được an vui nhẹ nhàng, được thảnh thơi giải thoát, vượt xa vui cõi Trời. Nếu không được như vậy, thân tâm đều tự tại, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.  

Nguyện thứ ba mươi tư: Khi con được thành Phật, có các loài chúng sinh, ở khắp trong vô lượng, bất khả tư nghì cõi, các quốc độ chư Phật, khắp mười phương thế giới, nghe được Danh hiệu con, mà vui mừng tin nhận, lại phát nguyện thụ trì, nếu chẳng sớm chứng được, môn Tam Muội Tổng Trì, và Vô Sinh Pháp Nhẫn, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ ba mươi lăm: Khi con được thành Phật, nếu có người nữ nào, ở khắp trong vô lượng, bất khả tư nghì cõi, các quốc độ chư Phật, khắp mười phương thế giới, nghe được Danh hiệu con, mà vui mừng tin nhận, lại phát tâm Bồ Đề, chán ghét thân nữ kia, sau khi thọ mạng hết, dù sinh ở cõi nào, lại còn phải thọ sinh, làm thân con gái nữa, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ ba mươi sáu: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát, ở khắp trong vô lượng, bất khả tư nghì cõi, các quốc độ chư Phật, khắp mười phương thế giới, nghe được Danh hiệu con, sau khi xả báo thân, chuyển thân kế tiếp sau, mãi tu hành phạm hạnh, cho đến khi thành Phật, không còn bị thoái chuyển. Nếu không được như vậy, Bồ Tát kia thoái chuyển, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ ba mươi bảy: Khi con được thành Phật, có các chúng Trời Người, ở khắp trong vô lượng, bất khả tư nghì cõi, các quốc độ chư Phật, khắp mười phương thế giới, nghe được Danh hiệu con, mà chí tâm xưng tán, cúi đầu và đỉnh lễ, rồi gieo mình năm vóc, tâm vui mừng tin nhận, đạo của các Bồ Tát, nguyện tu hành thanh tịnh, thì được khắp Trời Người, cùng tất cả hữu tình, hết thảy đều cung kính. Nếu không được như vậy, không được người kính mến, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ ba mươi tám: Khi con được thành Phật, có các chúng Trời Người trong cõi nước của con, nếu mà muốn y phục, thời được các y phục, mịn bóng đẹp trang nghiêm, rất tốt đẹp lạ thường, hợp theo chính pháp Phật, như chỗ Phật khen ngợi, tùy các tâm sở niệm, có y phục trang nghiêm, đắp mặc trên thân mình. Nếu mà còn phải cắt, may mặc hoặc nhuộm giặt, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ ba mươi chín: Khi con được thành Phật, có các chúng Trời Người, trong cõi nước của con, đều hưởng sự vui sướng, như các vị Tỷ Khiêu, đã đắc quả Lậu Tận. Nếu không được như vậy, còn có ai khổ não, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.  

Nguyện lớn thứ bốn mươi: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát trong cõi nước của con, tùy tâm muốn được thấy, vô lượng các cõi nước, đẹp trang nghiêm thanh tịnh, của các Đức Phật khác, khắp mười phương thế giới, liền được như sở nguyện, thấy khắp các cõi Phật, từ nơi cây báu lớn, mà hiện rõ thân mình, thí như gương báu sáng, soi tỏ khắp thân hình. Nếu không được như vậy, không tùy tâm sở nguyện, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.  

Nguyện thứ bốn mươi mốt: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát, ở trong các cõi nước, nghe Danh hiệu của con, từ lúc mới phát tâm, cho đến khi thành Phật, được đầy đủ thân căn, chẳng còn bị khuyết thiếu. Nếu không được như vậy, không được thân tốt đẹp, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ bốn mươi hai: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát ở trong các cõi nước, nghe Danh hiệu của con, thảy đều được tam muội, thanh tịnh và giải thoát, từ trong chính định ấy, mà phát khởi thiện tâm, lòng mong được cúng dàng, vô lượng các đức Phật, ở khắp trong mười phương, vô lượng các thế giới, nhưng tâm vẫn thường trụ, trong chính định chẳng động. Nếu không được như vậy, không tùy tâm sở nguyện, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.  

Nguyện thứ bốn mươi ba: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát ở trong các cõi nước, nghe Danh hiệu của con, sau khi xả báo thân, muốn chuyển sinh làm người, được tướng hảo trang nghiêm, thường vào nhà tôn quý, trong tâm thường thanh tịnh, chí mong cầu đạo lớn. Nếu không được như vậy, không tùy tâm sở nguyện, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ bốn mươi tư: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát ở trong các cõi nước, nghe Danh hiệu của con, được vui mừng khác lạ, mà phát khởi tín tâm, thường tu hạnh Bồ Tát, đầy đủ các công đức. Nếu không được như vậy, không tùy tâm sở nguyện, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ bốn mươi lăm: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát, ở trong các cõi nước, nghe Danh hiệu của con, thảy đều tu chứng được, môn Phổ Đẳng Tam Muội. Thường trụ Tam Muội đó, cho đến khi thành Phật, thấy vô lượng vô biên, bất khả tư nghì Phật. Nếu không được như vậy, không tùy tâm sở nguyện, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ bốn mươi sáu: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát, trong cõi nước của con, được tùy theo ý nguyện, muốn được nghe pháp gì, thì liền được nghe ngay. Nếu không được như vậy, không tùy tâm sở nguyện, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ bốn mươi bảy: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát, ở trong các cõi nước, nghe Danh hiệu của con, liền một lòng tin nhận, và phát nguyện thụ trì. Nếu chẳng tu chứng được, quả vị Bất Thoái Chuyển, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Nguyện thứ bốn mươi tám: Khi con được thành Phật, có các chúng Bồ Tát, ở trong các cõi nước, nghe Danh hiệu của con, liền một lòng tin nhận, và phát nguyện thụ trì, ở ngay trong cõi đó, thời liền tu chứng được, các pháp môn tam muội, đầy đủ ba pháp nhẫn: Một là tu chứng được, pháp lạc Âm Hưởng Nhẫn; hai là tu chứng được, tâm pháp Nhu Thuận Nhẫn; ba là tu chứng được, tâm Vô Sinh Pháp Nhẫn. Đối với hết tất cả, các Pháp của chư Phật, mà chẳng tu chứng được, quả vị Bất Thoái Chuyển, thì con sẽ chẳng trụ, ngôi Vô Thượng Chính Giác.

Lúc bấy giờ đức Phật, liền bảo với đại chúng, và ngài A Nan rằng: Khi Tỷ Khiêu Pháp Tạng, phát đại thệ nguyện rồi, liền đối trước đức Phật, mà nói bài tụng rằng:                                          o                                       

Con lập nguyện hơn đời,

Quyết đến đạo vô thượng,

Nguyện này chưa đầy đủ,

Thề không thành Chính Giác.

Con ở vô lượng kiếp,

Chẳng làm đại thí chủ  

Cứu giúp chúng sinh khổ,

Thề không thành Chính Giác.

Tới khi con thành Phật,

Khắp mười phương thế giới

Chẳng nghe Danh hiệu con,

Thề không thành Chính Giác.

Lìa dục tới chính niệm

Tu hành theo Phạm hạnh,

Chí cầu ngôi vô thượng,

Làm thầy khắp Trời Người.

Sức thần tỏa hào quang,

Soi khắp cả Đại Thiên

Tiêu trừ ba thứ độc,

Cứu hết chúng sinh khổ.

Khai mở mắt trí tuệ,     

Diệt hết mọi tối tăm

Ngăn lấp các nẻo dữ,

Mở rộng các đường lành.

Công đức đều đầy đủ,

Uy sáng khắp mười phương

Nhật nguyệt hòa chung sáng,

Cũng không so sánh được.

Vì chúng khai Pháp Tạng,

Rộng truyền công đức báu

Thường ở trong đại chúng,

Thuyết pháp Sư Tử hống.

Cúng dàng tất cả Phật,

Đầy đủ mọi công đức

Nguyện Tuệ đều viên mãn,

Làm thầy khắp ba cõi. 

Trí vô ngại Như Lai,

Chiếu khắp mười phương cõi

Nguyện lực công đức con,

Sánh bậc Tôn quý nhất.      

Nguyện này khi thành tựu,

Cảm động khắp Đại thiên,

Chúng Thiên thần trên không,

Rải hoa báu cúng dàng.                o                                             

Đức Phật lại bảo với Tôn giả A Nan rằng: Khi Pháp Tạng Tỷ Khiêu, nói bài kệ đó rồi, ở khắp trong các cõi, đất sáu lần rung động, chư Thiên trên hư không, cùng nhau đồng đi đến, đem hương hoa tốt đẹp, rải xuống để cúng dàng. Nhạc trời trên hư không, tự nhiên phát ra tiếng, tán thán khen ngợi rằng: “Ông quyết thành Chính Giác”. Kể từ đó trở đi, Ngài Pháp Tạng Tỷ Khiêu, chuyên tu mọi đức lành, một lòng không hư dối, trong cảnh tịch tĩnh vui, siêu vượt qua ba cõi, tiến tới Đạo Vô Thượng, độ muôn loài chúng sinh.

Khi ấy Ngài Pháp Tạng, đối trước đức Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai cùng đại chúng Trời, Người, Ma, Phạm, các Long thần, mà phát lời thệ nguyện, dốc một lòng thực hành, chuyên chí để lo tu, mở mang rộng cõi Phật, thật bao la rộng lớn, đều trang nghiêm thanh tịnh, thường trụ không biến đổi, thật nhiệm màu bậc nhất. Chí chuyên tu như vậy, trải qua vô lượng kiếp, chẳng khởi ra Ba dục, chẳng theo Ba vọng tưởng, chẳng đắm nơi Sáu trần, thành tựu các đức nhẫn, ít muốn và biết đủ, thành tựu mọi hạnh lành.  Y nơi chân đế môn, thường niệm mười phương Phật, chuyên tu hạnh thanh tịnh, tạo dựng mọi phúc điền, không nề nơi gian khổ, quyết tiến chẳng thoái lui. Đối với các chúng sinh, từ hòa và vui vẻ, lân mẫn chẳng cách xa, khuyến dụ cho tu hành. Thường cung kính Tam Bảo, và phụng sự sư trưởng, tâm ngay không nịnh hót, không dối trá quanh co, thân không mọi tật bệnh, luôn trang nghiêm đứng đắn, làm khuôn phép mẫu mực, cho Trời Người ở đời. Thường trụ nơi tịch định, và quán pháp như huyễn, giữ gìn cho Thân nghiệp, chẳng mất một uy nghi, giữ gìn cho Khẩu nghiệp, không nói lỗi của người, giữ gìn cho Ý nghiệp, thanh tịnh chẳng nhiễm ô. Nếu vào nơi đô hội, thành thị hoặc xóm làng, gặp bạn bè quyến thuộc, không sinh tham nhiễm trước. Hoặc là được trân bảo, chẳng khởi chút lòng tham, thường hành hạnh Bố thí, Trì giới và Nhẫn nhục, Tinh tiến cùng Thiền định, Trí tuệ Ba la mật. Lại dạy khắp cõi đời, biết các pháp để tu, và khuyên an trụ vào, đạo Vô Thượng Chính Giác. Trải qua bao kiếp số, thành tựu các căn lành, vì vậy sinh chỗ nào, thảy đều được đầy đủ, của báu để trang nghiêm, không bao giờ khuyết thiếu. Hoặc hiện làm Cư sĩ, hoặc hiện làm Trưởng giả, hoặc Sát lợi đế vương, hoặc Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc làm thân Vua chúa, ở trên các cõi trời, đều dốc một lòng thành, cung kính và tôn trọng, thường thực hành cúng dàng, vô lượng các đức Phật, chưa từng có dừng nghỉ, trải qua nhiều ức kiếp.

Bởi thế này A Nan! những công đức lớn lao, của Pháp Tạng Tỷ Khiêu, nhiều vô lượng vô biên, thật không thể kể xiết. Ngài lại được phúc báo, miệng thường tỏa hương thơm, như là hoa Ưu Đàm, phảng phất khắp mười phương; khắp nơi trên thân mình, thường phát ra mùi thơm, như cây Chiên Đàn Hương, xông khắp cõi Đại thiên. Dung nhan rất đẹp đẽ, tướng tốt thật tuyệt vời. Tay Ngài thường phóng ra, các vật báu vô tận, và các loại thức ăn, đồ mặc cùng thức uống, trân châu và lụa là, phan phướn thật trang nghiêm, tất cả các vật dụng, nhiều vô lượng vô biên, hơn hẳn các cõi trời, cùng các cõi thế gian. Đối với tất cả Pháp, tâm thường được tự tại. Bởi vì thế cho nên, hay khiến chúng hữu tình, hoan hỷ và khoái lạc, phát đại Bồ Đề tâm, dốc chí quyết tu theo, cho đến khi thành Phật.          o                                                                                                                                                   

Bấy giờ Ngài A Nan, liền bạch với Phật rằng: Kính bạch đức Thế Tôn! Ngài Pháp Tạng Tỷ Khiêu, hiện được thành Phật chưa? Hay Ngài đã thành rồi, nhưng nay đã diệt độ? Hay là vẫn chưa thành? Hoặc thành đang trụ thế ?

Đức Phật bảo A Nan: Ngài Bồ Tát Pháp Tạng, nay đã thành Phật rồi. Cách hơn mười muôn ức, cõi Phật về phương Tây, nơi  đó có thế giới, gọi tên là Cực Lạc. Ngài Pháp Tạng Tỷ Khiêu, sau khi thành Phật rồi, pháp hiệu của Ngài là, Đức Phật A Di Đà. Cõi nước rất trang nghiêm, thanh tịnh và đẹp đẽ, đều do bảy thứ báu, cùng nhau hợp lại thành. Trên mỗi thứ báu đó, lại có quang minh lớn, thường phát ra tia sáng, khắp vô lượng vô biên, thấu suốt khắp các cõi, cả mười phương thế giới.

Đức Phật A Di Đà, từ khi Ngài thành Phật, tới nay đã mười kiếp, các chúng đại đệ tử, như Bồ Tát, Thanh Văn, nhiều vô lượng vô biên, thật chẳng thể kể xiết.                                o                                                              

         Khi ấy Đức Thế Tôn, nói về các hạnh nguyện, của Đức Phật kia rồi, bấy giờ A- Xà- Thế, cùng năm trăm trưởng giả, biết được điều đó rồi, lòng hoan hỷ tràn đầy, mỗi mỗi các vị đó, đều cầm theo bó hoa, từ tòa ngồi đứng dậy, đi tới trước Đức Phật, đỉnh lễ rồi dâng lên, cung kính mà cúng dàng. Khi cúng Phật xong rồi, liền trở về chỗ cũ, quỳ gối và chắp tay, mà phát lời nguyện rằng: Khi chúng con thành Phật, nguyện cho hết tất cả, thảy đều được giống như, đức Phật A Di Đà.

Lúc bấy giờ Đức Phật, biết rõ hết tâm niệm, tất cả những vị đó, liền bảo với đại chúng, các vị Tỷ Khiêu rằng: Các vị Quốc vương đây, và các Trưởng giả này, tất cả những vị đó, đều sẽ được thành Phật.

Vì sao lại như thế? Vì nhiều đời trước kia, thường hành Bồ Tát đạo, tất cả những vị này, đều trải qua vô số, vô lượng kiếp cúng dàng, bốn trăm ức Đức Phật. Thời Đức Phật Ca Diếp, tất cả những vị đó, đều là đệ tử Ta, nay lại đến cúng dàng. Khi các vị Tỷ Khiêu, nghe Đức Phật nói thế, tất cả đều vui mừng, lòng an vui tràn đầy.              O

  

PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA

VÔ LƯỢNG THỌ

TRANG NGHIÊM THANH TỊNH

BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH.

Hết Quyển Thượng

 


Chương trước Chương tiếp
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.

Bài mới

  • Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Thiển Thích
  • Con Gái Đức Phật
  • Truyện Tiền Thân Đức Phật Thích Ca (song ngữ)
  • SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
  • TRẦN NHÂN TÔNG VỚI THIỀN PHÁI TRÚC LÂM

Meta

  • Log in
  • Entries feed
  • Comments feed
  • WordPress.org
  • Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Thiển Thích, Con Gái Đức Phật, Truyện Tiền Thân Đức Phật Thích Ca (song ngữ), SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI, TRẦN NHÂN TÔNG VỚI THIỀN PHÁI TRÚC LÂM, Liên Hoa Hóa Sanh - Pháp Sư Đạo Chứng, Luân Lý Giáo Khoa Thư, Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Kinh Bảo Khiếp Ấn Thần Chú về Bí Mật Toàn Thân Xá-lợi ở Trong Tâm của Tất Cả Như Lai, Đại Cương Kinh Thủ Lăng Nghiêm,