Sở cầu của Phật pháp là gì? Việc này các vị cần thiết phải biết, bao nhiêu người học Phật, họ cầu cái gì? Chỉ cầu phát tài, cầu thăng quan, cầu bình an, cầu những thứ này. Những thứ này trong nhà Phật không cầu được. Vậy thì đi cầu thần. Chân thật mà nói với các vị, thần cũng không thể giúp gì, cũng bó tay hết cách, đây gọi là mê tín, đây gọi là vọng tưởng làm càn, đó là sai lầm. Thứ mà Phật pháp mong cầu, bạn xem trong tất cả Kinh Luận, có một danh từ gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chúng ta cũng in trên biểu đồ, đây chính là mong cầu của Phật pháp. Danh từ này là có thể đem nó phiên dịch ra nhưng không dịch, vẫn là dùng dịch âm của tiếng phạn, loại không phiên dịch này gọi là “Tôn trọng không dịch”. Chúng ta rất tôn kính đối với danh từ này nên giữ lại âm Phạn, đây là vì tôn trọng nên không dịch, không như từ Phật Đà, từ Phật Đà là vì hàm nghĩa quá nhiều mà không dịch.
Phật Đà dịch thành tiếng Trung Quốc chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bồ Đề dịch là giác, chữ Tam dịch là chánh, đây là mục tiêu giáo học của Phật pháp. Phật dạy cho chúng ta là hy vọng chúng ta thành tựu cái gì? Chính là hy vọng chúng ta đều có thể chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Danh từ này cũng cần phải tốn một ít thời gian để giải thích cho rõ ràng, đây là điều mong cầu của người học Phật, rất là quan trọng. Chúng ta cùng học với Thích Ca Mâu Ni Phật là học cái gì? Chính là học cái này. Trước tiên nói về Chánh Giác, giác là giác ngộ, thế gian cũng có người rất thông minh rất có trí tuệ, các nhà khoa học hiện đại tương đối thông minh, khoa học kỹ thuật càng ngày càng mới, bạn có thể nói họ không giác ngộ sao? Bạn có thể nói họ không thông minh chăng? Nhà triết học, nhà tôn giáo đều rất thông minh, năng lực giác so với người thông thường đều rất cao minh, thế nhưng Phật đều không thừa nhận họ là chánh giác, tuy là họ có giác.
Phật nói họ không phải chánh giác, điểm trọng yếu của nhà Phật chúng ta là ở chữ “Chánh”, chữ “Chánh” này không thể tùy tiện dùng cho người. Vì sao cái giác của họ không chánh vậy? Vì phiền não của họ chưa dứt, tâm của họ không thanh tịnh. Bạn xem họ có thị phi nhân ngã, họ còn có tham sân si mạn, họ vẫn còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tâm họ được không thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh thì cái năng lực giác đó của họ có cao đi chăng nữa cũng không phải là chánh giác. Cho nên cái chánh giác này của Phật pháp là tâm thanh tịnh, trong tâm thanh tịnh thì sanh trí tuệ, giác ngộ rồi thì đó gọi là chánh giác. Do đó, trong pháp thế gian không có tiêu chuẩn về chánh giác này. Chúng sanh sáu cõi đều là tà tri tà kiến, không phải chánh giác, Phật yêu cầu chúng ta phải chánh giác. Khi đạt được chánh giác, ở trong nhà Phật chúng ta cũng có một học vị, học vị này là thấp nhất. Giống như học đại học, tốt nghiệp đại học rồi thì nhận được học vị đại học; Chánh giác là học vị sơ cấp, danh từ của học vị này gọi là A La Hán. A La Hán, Bồ Tát, Phật là tên gọi học vị trong nhà Phật, việc này phải nên hiểu.
Bạn được giác ngộ rồi thì gọi bạn là A La Hán. A La Hán không còn kiến tư phiền não, đây là quả vị tiểu thừa. Không những A La Hán không có ý niệm nhân ngã thị phi mà cũng không có cái ý niệm tham sân si mạn. Chúng ta từ trước luôn cho rằng phải chứng được quả A La Hán thì mới có thể đoạn tận được kiến tư phiền não, đó là không còn chấp cái thân này là ta. Nhưng chúng ta không biết được, ở trên kinh Kim Cang Phật đã nói, sơ quả tiểu thừa Tu Đà Hoàn (sơ quả tiểu thừa Tu Đà Hoàn cách với quả vị A La Hán rất xa) đã phá được bốn tướng là ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, đây trong Kinh Kim Cang nói. Thế nên Phật nói, sơ quả gọi là Nhập lưu, họ đã được vào dòng thánh, họ đã chứng được ngôi vị bất thoái, tuyệt đối không còn thoái chuyển xuống phàm phu. Nguyên do gì vậy? Họ không còn chấp trước nhân ngã thị phi, không còn ý niệm này nữa. Từ nơi phương diện này chúng ta liền có thể thể hội được, chỗ khác nhau giữa giáo dục của Phật đà và giáo dục của thế gian này là chỗ này.