A Di Đà Phật Thánh Điển

I. Tán Thán Quy Kính Chương (讚歎歸敬章)

trước
tiếp

A Di Đà Phật Thánh Điển (chánh văn)

阿彌陀佛聖典

 

  1. Tán thán quy kính chương(讚歎歸敬章)

 

          Quả đức thù thắng, không gì vượt trỗi Tây Phương. Đạo tu hành đơn giản, nhanh chóng, không gì mau lẹ bằng niệm Phật. Do vậy, các kinh phần nhiều khen ngợi Phật Di Đà, vô lượng chư Phật không vị nào chẳng tán thán, vô tận Bồ Tát đều quy y. Công đức trang nghiêm của đức Phật ấy và cõi Phật ấy đúng là chúng ta không thể suy lường một phần trong vô lượng bất khả thuyết được! Những điều được nêu ra trong hiện thời đều là nhờ vào thánh ngôn trích từ các bộ kinh để trình bày đại lược đó thôi. Thật ra, toàn bộ những gì được ghi chép trong sách này, không gì chẳng là những lời lẽ tán thán, quy kính, chứ không phải chỉ có những điều được trần thuật trong chương sách này [mà thôi]!

 

* Phật Thuyết Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Phần

(佛說大方等大集經菩薩念佛三昧分)

 

          Quá khứ hữu Phật danh Phóng Quang, diệc vô biên phương vô lượng tướng (CBETA, T13, no.41, p.871).

          過去有佛名放光,亦無邊方無量相。

          (Trong quá khứ có đức Phật tên là Phóng Quang, cũng có vô lượng không ngằn mé tướng).

 

* Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh

(佛說無量壽經)

 

          Vô Lượng Thọ Phật oai thần quang minh, tối tôn đệ nhất. Chư Phật quang minh, sở bất năng cập. Hoặc hữu Phật quang, chiếu bách Phật thế giới, hoặc thiên Phật thế giới. Thủ yếu ngôn chi, hoặc chiếu Đông phương hằng sa Phật sát. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy thượng hạ, diệc phục như thị. Hoặc hữu Phật quang, chiếu ư thất xích, hoặc chiếu nhất do-tuần, nhị, tam, tứ, ngũ do-tuần. Như thị chuyển bội, nãi chí chiếu nhất Phật sát. Thị cố Vô Lượng Thọ Phật, hiệu Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Viêm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Kỳ hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, tam cấu tiêu diệt, thân ý nhu nhuyễn, hoan hỷ, dũng dược, thiện tâm sanh yên. Nhược tại tam đồ cần khổ chi xứ, kiến thử quang minh, giai đắc hưu tức, vô phục khổ não. Thọ chung chi hậu, giai mông giải thoát. Vô Lượng Thọ Phật, quang minh hiển hách, chiếu diệu thập phương chư Phật quốc độ, mạc bất văn tri. Bất đản ngã kim xưng kỳ quang minh, nhất thiết chư Phật, Thanh Văn, Duyên Giác, chư Bồ Tát chúng, hàm cộng thán dự, diệc phục như thị. Thập phương hằng sa chư Phật Như Lai, giai cộng tán thán Vô Lượng Thọ Phật oai thần công đức bất khả tư nghị. Vô Lượng Thọ Phật oai thần vô cực. Thập phương thế giới, vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật Như Lai, mạc bất xưng tán. Ư bỉ Đông phương Hằng hà sa Phật quốc, vô lượng vô số chư Bồ Tát chúng, giai tất vãng nghệ Vô Lượng Thọ Phật sở, cung kính cúng dường, cập chư Bồ Tát, Thanh Văn đại chúng thính thọ kinh pháp, tuyên bố đạo hóa. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy thượng hạ, diệc phục như thị (CBETA, T12, no.360)

          無量壽佛。威神光明。最尊第一。諸佛光明。所不能及。或有佛光。照百佛世界。或千佛世界。取要言之。或照東方恆沙佛剎。南西北方。四維上下亦復如是。或有佛光。照於七尺。或照一由旬。二三四五由旬。如是轉倍。乃至照一佛剎。是故無量壽佛。號無量光佛。無邊光佛。無礙光佛。無對光佛。炎王光佛。清凈光佛。歡喜光佛。智慧光佛。不斷光佛。難思光佛。無稱光佛。超日月光佛。其有眾生遇斯光者。三垢消滅。身意柔軟。歡喜踴躍。善心生焉。若在三塗勤苦之處。見此光明。皆得休息。無復苦惱。壽終之後。皆蒙解脫。無量壽佛。光明顯赫。照曜十方諸佛國土。莫不聞知。不但我今稱其光明。一切諸佛聲聞緣覺諸菩薩眾。咸共嘆譽。亦復如是。十方恆沙諸佛如來。皆共讚歎無量壽佛威神功德不可思議。無量壽佛。威神無極。十方世界。無量無邊不可思議諸佛如來。莫不稱嘆。於彼東方恆河沙佛國。無量無數諸菩薩眾。皆悉往詣無量壽佛所。恭敬供養。及諸菩薩聲聞大眾。聽受經法。宣佈道化。南西北方。四維上下。亦復如是。

          (Oai thần và quang minh của Vô Lượng Thọ Phật tôn quý bậc nhất. Quang minh của chư Phật chẳng thể sánh bằng. Có vị Phật quang minh chiếu đến một trăm thế giới Phật, hoặc một ngàn thế giới Phật. Nói tóm lại, hoặc là chiếu các cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng ở phương Đông. Nam, Tây, Bắc phương, bốn phương bàng, trên, dưới cũng giống như vậy. Hoặc có vị Phật quang minh chiếu xa bảy thước, hoặc chiếu xa một do-tuần, hai, ba, bốn, năm do-tuần. Lần lượt gấp bội như thế, cho đến chiếu một cõi Phật. Vì thế, Vô Lượng Thọ Phật có hiệu là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Viêm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Nếu có chúng sanh gặp quang minh ấy, tam cấu tiêu diệt, thân ý mềm dịu, hoan hỷ, hớn hở, thiện tâm sanh khởi. Nếu [chúng sanh nào] ở nơi tam đồ khổ sở, thấy quang minh ấy, đều được ngưng nghỉ, chẳng còn khổ não. Sau khi mạng chung, đều được giải thoát. Vô Lượng Thọ Phật quang minh rạng rỡ chiếu ngời các cõi nước Phật trong mười phương, không ai chẳng nghe biết. Không chỉ là ta nay ca ngợi quang minh ấy, mà hết thảy chư Phật, Thanh Văn, Duyên Giác, các vị Bồ Tát, đều cùng khen ngợi cũng giống như thế. Chư Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng trong mười phương đều cùng tán thán oai thần và công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Oai thần của Vô Lượng Thọ Phật vô cực. Vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới không vị nào chẳng ca ngợi. Trong các cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng ở phương Đông, vô lượng vô số các vị Bồ Tát đều cùng đến chỗ Vô Lượng Thọ Phật, cung kính cúng dường, cùng với các vị Bồ Tát, Thanh Văn, đại chúng, nghe nhận kinh pháp, tuyên dương, lưu truyền đạo pháp để hóa độ. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương bàng, trên, dưới cũng đều như thế).

         

* Đại Bảo Tích Kinh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội

(大寶積經無量壽如來會)

 

          Đông phương như hằng sa giới, nhất nhất giới trung như hằng sa Phật. Bỉ chư Phật đẳng, nhất nhất xưng tán A Di Đà Phật vô lượng công đức. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, chư Phật xưng tán, diệc phục như thị. Hà dĩ cố? Tha phương Phật quốc, sở hữu chúng sanh, văn Vô Lượng Thọ Như Lai danh hiệu, nãi chí năng phát nhất niệm tịnh tín, hoan hỷ, ái nhạo, sở hữu thiện căn, hồi hướng nguyện sanh Vô Lượng Thọ quốc giả, tùy nguyện giai sanh, đắc bất thoái chuyển, nãi chí Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Vô lượng vô số bất khả tư nghị vô hữu đẳng đẳng vô biên thế giới chư Phật Như Lai, giai cộng xưng tán Vô Lượng Thọ Phật sở hữu công đức (CBETA, T11, no.310).

          東方如恆沙界。一一界中如恆沙佛。彼諸佛等。一一稱讚阿彌陀佛無量功德。南西北方。四維上下。諸佛稱讚。亦復如是。何以故。他方佛國。所有眾生。聞無量壽如來名號。乃至能發一念凈信。歡喜愛樂。所有善根。迴向願生無量壽國者。隨願皆生。得不退轉。乃至無上正等菩提。無量無數不可思議無有等等無邊世界諸佛如來。皆共稱讚無量壽佛所有功德。

          (Các cõi nước ở phương Đông nhiều như cát sông Hằng, trong mỗi cõi có Phật nhiều như cát sông Hằng. Các đức Phật ấy, mỗi vị đều khen ngợi vô lượng công đức của A Di Đà Phật. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương bàng, trên, dưới, chư Phật khen ngợi cũng giống như thế. Vì cớ sao? Tất cả các chúng sanh trong những cõi Phật ở phương khác nghe danh hiệu của Vô Lượng Thọ Phật Như Lai, cho đến có thể phát một niệm tịnh tín, hoan hỷ, yêu thích, hồi hướng tất cả thiện căn nguyện sanh về cõi của Vô Lượng Thọ Phật, tùy theo ý nguyện đều được sanh về, đắc Bất Thoái Chuyển, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Chư Phật Như Lai trong vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn chẳng có gì sánh bằng vô biên thế giới đều cùng ca ngợi những công đức mà A Di Đà Phật vốn có).

 

Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh

(佛說阿彌陀三耶三佛薩樓佛檀過度人道經)

 

          A Di Đà Phật ân đức, chư sở bố thí, bát phương, thượng, hạ, vô cùng vô cực, thậm thâm vô lượng, khoái thiện bất khả ngôn. Kỳ trí huệ giáo thọ, sở xuất kinh đạo, bố cáo bát phương thượng hạ, chư vô ương số thiên thượng, thiên hạ, thậm bất nguyên dã. Kỳ kinh quyển số thậm đa, bất khả phục kế, đô vô hữu cực (CBETA, T12, no.362, p.308, c23-27).

          阿彌陀佛恩德。諸所布施。八方上下。無窮無極。甚深無量。快善不可言。其智慧教授。所出經道。布告八方上下。諸無央數天上天下。甚不原也。其經卷數甚多。不可復計。都無有極。

          (Ân đức của A Di Đà Phật đã bố thí tám phương, trên, dưới vô cùng, vô cực, rất sâu vô lượng, tốt lành chẳng thể diễn tả được. Ngài dùng trí huệ dạy bảo, nói ra những kinh giáo, đạo lý ban bố vô ương số cõi trời và nhân gian trong tám phương, trên, dưới chẳng thể kể xiết được. Số lượng các quyển kinh thật nhiều, chẳng thể tính đếm được, đều là chẳng có cùng cực).

 

* Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh

(大乘無量壽莊嚴經)

 

          Đông phương hữu Hằng hà sa số thế giới chư Phật Như Lai, xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật, bất khả tư nghị công đức. Nam phương diệc hữu Hằng hà sa số thế giới chư Phật Như Lai, xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức. Tây Phương diệc hữu Hằng hà sa số thế giới chư Phật Như Lai, xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức. Bắc phương diệc hữu Hằng hà sa số thế giới chư Phật Như Lai, xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức. Như thị tứ duy thượng hạ Hằng hà sa số thế giới chư Phật Như Lai xuất quảng trường thiệt tướng, phóng vô lượng quang, thuyết thành thật ngôn, xưng tán Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức. Như thị công đức trang nghiêm Cực Lạc quốc độ, mãn bỉ toán số vô lượng chi kiếp, thuyết bất năng tận. Bỉ Phật lợi lạc chư công đức, duy Phật dữ Phật nãi năng tri. Thanh Văn, Duyên Giác mãn thế gian, tận kỳ thần lực mạc năng trắc. Giả sử trường thọ chư hữu tình, mạng trụ vô số câu-chi kiếp, xưng tán Như Lai công đức thân, tận kỳ hình thọ tán vô tận (CBETA, T12, no.363).

          東方有恆河沙數世界諸佛如來。出廣長舌相。放無量光。說誠實言。稱讚無量壽佛。不可思議功德。南方亦有恆河沙數世界諸佛如來。出廣長舌相。放無量光。說誠實言。稱讚無量壽佛不可思議功德。西方亦有恆河沙數世界諸佛如來。出廣長舌相。放無量光。說誠實言。稱讚無量壽佛不可思議功德。北方亦有恆河沙數世界諸佛如來。出廣長舌相。放無量光。說誠實言。稱讚無量壽佛不可思議功德。如是四維上下恆河沙數世界諸佛如來。出廣長舌相。放無量光。說誠實言。稱讚無量壽佛不可思議功德。如是功德莊嚴極樂國土。滿彼算數無量之劫。說不能盡。彼佛利樂諸功德。唯佛與佛乃能知。聲聞緣覺滿世間。盡其神力莫能測。假使長壽諸有情。命住無數俱胝劫。稱讚如來功德身。盡其形壽贊無盡。

          (Phương Đông có chư Phật Như Lai trong các thế giới nhiều như số cát của sông Hằng hiện tướng lưỡi rộng dài, tỏa ra vô lượng quang minh, nói lời thành thật, ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Phương Nam cũng có chư Phật Như Lai trong các thế giới nhiều như số cát của sông Hằng hiện tướng lưỡi rộng dài, tỏa ra vô lượng quang minh, nói lời thành thật, ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Phương Tây cũng có chư Phật Như Lai trong các thế giới nhiều như số cát của sông Hằng hiện tướng lưỡi rộng dài, tỏa ra vô lượng quang minh, nói lời thành thật, ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Phương Bắc cũng có chư Phật Như Lai trong các thế giới nhiều như số cát của sông Hằng hiện tướng lưỡi rộng dài, tỏa ra vô lượng quang minh, nói lời thành thật, ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Chư Phật Như Lai trong các thế giới nhiều như cát sông Hằng ở bốn phương bàng, trên dưới như thế đều hiện tướng lưỡi rộng dài, tỏa ra vô lượng quang minh, nói lời thành thật, ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật. Quốc độ Cực Lạc công đức trang nghiêm như thế, dẫu trọn hết kiếp số tính đếm đều chẳng thể nói trọn. Các công đức lợi lạc của đức Phật ấy chỉ có Phật và Phật mới có thể biết, chứ Thanh Văn, Duyên Giác đầy ắp thế gian, dốc trọn hết thần lực của chính mình, vẫn chẳng thể suy lường được. Giả sử có các hữu tình trường thọ, thọ mạng đến vô số câu-chi[1] kiếp, ca ngợi thân công đức của Như Lai, cho đến hết tuổi thọ, vẫn ca ngợi chẳng trọn hết được).

         

* Phật Thuyết A Di Đà Kinh

(佛說阿彌經)

 

          Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công đức thủy, sung mãn kỳ trung. Trì để thuần dĩ kim sa bố địa. Tứ biên giai đạo, kim, ngân, lưu ly, pha lê hợp thành. Thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não nhi nghiêm sức chi. Trì trung liên hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết.

          Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm. Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, thường tác thiên nhạc, hoàng kim vi địa. Trú dạ lục thời, vũ thiên mạn-đà-la hoa. Kỳ quốc chúng sanh, thường dĩ thanh đán, các dĩ y kích, thịnh chúng diệu hoa, cúng dường tha phương thập vạn ức Phật. Tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành.

          Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

          Phục thứ Xá Lợi Phất. Bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu. Bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng chi điểu. Thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm. Kỳ âm diễn sướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, như thị đẳng pháp. Kỳ độ chúng sanh, văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

          Xá Lợi Phất! Nhữ phất vị thử điểu thật thị tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ, vô tam ác đạo.

          Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ thượng vô tam ác đạo chi danh, hà huống hữu thật? Thị chư chúng điểu, giai thị A Di Đà Phật dục linh pháp âm tuyên lưu biến hóa sở tác.

          Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, vi phong xuy động, chư bảo hàng thụ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm. Thí như bách thiên chủng nhạc, đồng thời câu tác. Văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm. Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

          Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà. Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại. Thị cố hiệu vi A Di Đà. Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật thọ mạng cập kỳ nhân dân vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp. Cố danh A Di Đà. Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai, kim ư thập kiếp.

          Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử, giai A La Hán, phi thị toán số chi sở năng tri. Chư Bồ Tát chúng, diệc phục như thị. Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

          Xá Lợi Phất! Như ngã kim giả tán thán A Di Đà Phật bất khả tư nghị công đức. Đông phương diệc hữu A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn, nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.

          Xá Lợi Phất! Nam phương thế giới, hữu Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật. Như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn. Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.

          Xá Lợi Phất! Tây phương thế giới hữu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn. Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.

          Xá Lợi Phất! Bắc phương thế giới hữu Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn. Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.

          Xá Lợi Phất! Hạ phương thế giới hữu Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn. Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.

          Xá Lợi Phất! Thượng phương thế giới hữu Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thụ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn. Nhữ đẳng chúng sanh, đương tín thị xưng tán bất khả tư nghị công đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh (CBETA, T12, no.366).  

          舍利弗。極樂國土。有七寶池。八功德水充滿其中池底純以金沙布地。四邊階道。金銀琉璃玻璃合成。上有樓閣。亦以金銀琉璃玻璃硨磲赤珠碼瑙而嚴飾之。池中蓮花。大如車輪。青色青光。黃色黃光。赤色赤光。白色白光。微妙香潔。舍利弗。彼佛國土。成就如是功德莊嚴。又舍利弗。彼佛國土。常作天樂。黃金為地。晝夜六時。雨天曼陀羅華。其國眾生。常以清旦。各以衣?。盛眾妙華。供養他方十萬億佛。即以食時。還到本國。飯食經行。舍利弗。極樂國土。成就如是功德莊嚴。複次舍利弗。彼國常有種種奇妙雜色之鳥。白鶴孔雀鸚鵡舍利迦陵頻伽共命之鳥。是諸眾鳥。晝夜六時。出和雅音。其音演暢。五根五力。七菩提分。八聖道分如是等法。其土眾生。聞是音已。皆悉念佛念法念僧。舍利弗。汝弗謂此鳥實是罪報所生。所以者何。彼佛國土。無三惡道。舍利弗。其佛國土尚無三惡道之名。何況有實。是諸眾鳥。皆是阿彌陀佛。欲令法音宣流變化所作。舍利弗。彼佛國土。微風吹動。諸寶行樹。及寶羅網。出微妙音。譬如百千種樂。同時俱作。聞是音者。自然皆生念佛念法念僧之心。舍利弗。其佛國土。成就如是功德莊嚴。舍利弗。於汝意云何。彼佛何故號阿彌陀。舍利弗。彼佛光明無量。照十方國。無所障礙。是故號為阿彌陀。又舍利弗。彼佛壽命。及其人民。無量無邊。阿僧祇劫。故名阿彌陀。舍利弗阿彌陀佛。成佛以來。於今十劫。又舍利弗。彼佛有無量無邊聲聞弟子。皆阿羅漢。非是算數之所能知。諸菩薩眾。亦復如是。舍利弗。彼佛國土。成就如是功德莊嚴。舍利弗。如我今者讚歎阿彌陀佛不可思議功德。東方亦有阿閦鞞佛。須彌相佛。大須彌佛。須彌光佛。妙音佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。舍利弗。南方世界。有日月燈佛。名聞光佛。大焰肩佛。須彌燈佛。無量精進佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。舍利弗。西方世界有無量壽佛。無量相佛。無量幢佛。大光佛。大明佛。寶相佛。凈光佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。舍利弗。北方世界。有焰肩佛。最勝音佛。難沮佛。日生佛。網明佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。舍利弗。下方世界。有師子佛。名聞佛。名光佛。達摩佛。法幢佛。持法佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。舍利弗。上方世界。有梵音佛。宿王佛。香上佛。香光佛。大焰肩佛。雜色寶華嚴身佛。娑羅樹王佛。寶華德佛。見一切義佛。如須彌山佛。如是等恆河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德。一切諸佛所護念經。

          (Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức đầy ắp trong đó. Đáy ao dùng thuần cát vàng để trải đất. Đường đi, bậc thềm ở bốn phía đều do vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Phía trên có lầu gác, cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang hoàng. Hoa sen trong ao to như bánh xe, màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng, vi diệu thơm sạch.

          Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế đó.

          Lại này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thường trỗi nhạc trời, vàng ròng làm đất. Ngày đêm sáu thời, mưa hoa mạn-đà-la cõi trời. Chúng sanh cõi ấy thường vào sáng sớm, ai nấy dùng vạt áo, đựng các loại hoa mầu nhiệm, cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác. Ngay trong khoảng bữa ăn, trở về cõi mình, dùng cơm, kinh hành.

          Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

          Lại này Xá Lợi Phất! Nước ấy thường có các loại chim kỳ diệu đủ màu: Bạch hạc, chim công, két (vẹt), xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cộng mạng. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hòa nhã. Âm thanh ấy diễn nói lưu loát Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, các pháp như vậy. Chúng sanh cõi ấy, nghe âm thanh ấy, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

          Xá Lợi Phất! Ông đừng nói các loài chim thật sự do tội báo sanh ra. Vì cớ sao vậy? Cõi nước Phật ấy chẳng có ba ác đạo.

          Xá Lợi Phất! Trong cõi Phật ấy, còn không có tên gọi ác đạo, huống là có thật? Các loài chim ấy đều do A Di Đà Phật muốn cho pháp âm được lưu truyền mà biến hóa ra.

          Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và lưới mành báu, phát ra âm thanh vi diệu. Ví như trăm ngàn loại nhạc cùng trỗi một lúc. Kẻ nghe âm thanh ấy, tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

          Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

          Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Đức Phật ấy vì sao có hiệu là A Di Đà?

          Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy quang minh vô lượng, chiếu mười phương cõi nước, chẳng bị chướng ngại. Vì thế, hiệu là A Di Đà.

          Lại này Xá Lợi Phất! Thọ mạng của đức Phật ấy và nhân dân của Ngài là vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp. Vì thế, tên là A Di Đà.

          Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật đến nay đã là mười kiếp.

          Lại này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy có vô lượng vô biên đệ tử Thanh Văn, đều là A La Hán, chẳng thể tính đếm mà hòng biết được. Các vị Bồ Tát cũng giống như thế. Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

          Xá Lợi Phất! Như ta nay ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật, phương Đông cũng có A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hãy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.

          Xá Lợi Phất! Thế giới ở phương Nam có Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hãy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.

          Xá Lợi Phất! Thế giới ở phương Tây có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hãy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.

          Xá Lợi Phất! Thế giới ở phương Bắc có Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhật Sanh Phật, Võng Minh Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hãy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.

          Xá Lợi Phất! Thế giới ở phương dưới có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hãy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”.

          Xá Lợi Phất! Thế giới ở phương trên có Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Sa La Thụ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, hằng hà sa số chư Phật như thế, mỗi vị ở nước mình, hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, thốt lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi, hãy nên tin kinh Ca Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”).

 

Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh

(稱讚凈土佛攝受經)

 

          Cực Lạc thế giới tịnh Phật độ trung, hữu như thị đẳng vô lượng vô biên bất khả tư nghị thậm hy hữu sự. Giả sử kinh ư bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, dĩ kỳ vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa thiệt, nhất nhất thiệt thượng xuất vô lượng thanh, tán kỳ công đức, diệc bất năng tận (CBETA, T12, no.367, p.349, b24-27)

          極樂世界凈佛土中。有如是等無量無邊不可思議甚希有事。假使經於百千俱胝那庾多劫。以其無量百千俱胝那庾多舌。一一舌上出無量聲。贊其功德。亦不能盡。

          (Trong cõi Phật thanh tịnh là thế giới Cực Lạc, có vô lượng vô biên chuyện chẳng thể nghĩ bàn rất hiếm có như thế đó. Giả sử trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp dùng vô lượng trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa lưỡi, trên mỗi lưỡi đều phát ra vô lượng tiếng để khen ngợi công đức ấy cũng chẳng thể trọn hết).

 

* Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, Kim Thắng Đà La Ni Phẩm

(金光明最勝王經金勝陀羅尼品)

 

          Nam-mô Tây Phương A Di Đà Phật (CBETA, T16, no.665, p.423, c.8).

          南謨西方阿彌陀佛。

 

* Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh, Đại Cát Tường Thiên Nữ Tăng Trưởng Tài Vật Phẩm

(金光明最勝王經大吉祥天女增長財物品)

 

          Nam-mô Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật (CEBTA, T16, no.665, p439, b27).

          南謨西方無量壽佛。

 

Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh

(大乘入楞伽經)

 

          Thập phương chư sát độ, chúng sanh Bồ Tát trung, sở hữu pháp báo Phật, hóa thân cập biến hóa, giai tùng Vô Lượng Thọ, Cực Lạc giới trung xuất. Ư Phương Quảng kinh trung, ưng tri mật ý thuyết (CBETA, T16, no. 672, p.627, b4-8).

          十方諸剎土。眾生菩薩中。所有法報佛。化身及變化。皆從無量壽。極樂界中出。於方廣經中。應知密意說。

          (Các cõi nước mười phương, trong chúng sanh, Bồ Tát, tất cả Pháp Thân, Báo Thân, và Hóa Thân cùng với các thân biến hóa đều từ Vô Lượng Thọ trong thế giới Cực Lạc mà ra. Hãy nên biết cách nói bao hàm mật ý trong kinh Phương Quảng).

 

Nhập Lăng Già Kinh

(入楞伽經)

 

          Nhược bất sanh bỉ tâm, thị Đệ Nhất Nghĩa tướng, Báo tướng Phật thật thể, cập sở hóa Phật tướng, chúng sanh cập Bồ Tát, tịnh thập phương quốc độ, tập khí Pháp Hóa Phật, cập tác ư Hóa Phật. Thị giai nhất thiết tùng, A Di Đà quốc xuất (CBETA, T16, no.671, p.568, b29-c5).

          若不生彼心。是第一義相。報相佛實體。及所化佛相。眾生及菩薩。並十方國土。習氣法化佛。及作於化佛。是皆一切從。阿彌陀國出。

          (Nếu chẳng sanh cái tâm ấy thì là Đệ Nhất Nghĩa Tướng, thật thể của thân tướng Báo Thân Phật và thân tướng của Hóa Phật, chúng sanh và Bồ Tát, cùng với mười phương cõi nước, tập khí Pháp Hóa Phật và Hóa Phật được biến hiện đều là từ cõi nước của A Di Đà Phật mà ra).

 

Bất Không Quyến Tác Đà La Ni Tự Tại Vương Chú Kinh

 (不空罥索陀羅尼自在王咒經)

 

          Nam-mô a mị đá bà da (CBETA, T20, no.1097, p.432, a15-16)

          南謨阿弭哆婆耶。

          (Namo Amitābhāya).

 

Bất Không Quyến Tác Tâm Kinh

(不空罥索心經)

 

          Kính lễ Vô Lượng Quang Như Lai (CBETA, T20, no.1095, p.407, b10-11).

          敬禮無量光如來。

 

Bất Không Quyến Tác Thần Biến Chân Ngôn Kinh

(不空罥索神變真言經)

 

          Kính lễ Vô Lượng Quang Như Lai (CBETA, T20, no.1092, p.229, a24).

          敬禮無量光如來。

 

Phật Thuyết Xưng Dương Chư Phật Công Đức Kinh

(佛說稱揚諸佛功德經)

 

          Phục thứ, Xá Lợi Phất! Tây Phương khứ thử độ thập vạn ức Phật sát, hữu thế giới danh viết An Lạc. Kỳ quốc hữu Phật, hiệu A Di Đà Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư. Hiệu viết Chúng Hựu, độ nhân vô lượng. Nhược hữu đắc văn Vô Lượng Thọ Như Lai danh giả, nhất tâm tín nhạo, trì phúng tụng niệm, đương khởi quảng viễn vô lượng hoan hỷ, an lập kỳ ý, linh sử Chân Đế, thập vạn ức tín tâm, niệm tư Như Lai, kỳ nhân đương đắc vô lượng chi phước, vĩnh đương viễn ly tam đồ chi ách. Mạng chung chi hậu, giai đắc vãng sanh bỉ Phật sát độ. Mạng dục chung thời, nhất tâm tín nhạo, niệm bất vong xả, A Di Đà Phật, tương chư chúng Tăng, trụ kỳ nhân tiền. Ma chung bất năng hủy hoại tư đẳng Chánh Giác chi tâm. Sở dĩ giả hà? Kỳ Phật Thế Tôn, hưng lập đại bi, thệ độ nhất thiết vô lượng chúng sanh, diệc phục hộ trì thập phương thế giới nhất thiết chúng sanh. Kỳ hữu đắc sanh An Lạc thế giới.

          Xá Lợi Phất! Kỳ Phật Thế Tôn, bổn hoằng thệ nguyện. Kỳ hữu cầu ư đệ nhất chi thừa, ư kỳ thế giới, cụ mãn Như Lai chư Phật chi pháp, cụ Chánh Giác phần. Cầu Thanh Văn thừa, ư bỉ Phật sát, đắc A La Hán. Kỳ hữu vãng sanh bỉ Phật sát giả, tùng kỳ sở nguyện, đại tiểu chi thừa, ư bỉ tất mãn. Kỳ hữu tối hậu văn A Di Đà Như Lai danh hiệu, tán thuyết chi giả, tín bất hồ nghi, đương khởi kính tâm chí ý niệm chi như niệm phụ mẫu, tác như thị niệm. Tư đẳng phổ đương ư bỉ Phật quốc, cụ mãn chúng nguyện. Kỳ hữu bất tín tán thán xưng dương A Di Đà Phật danh hiệu công đức nhi hủy báng giả, ngũ kiếp chi trung, đương đọa địa ngục, cụ thọ chúng khổ (CBETA, T14, no.434, p.99, a9-b1).

          復次。舍利弗。西方去此度十萬億佛剎。有世界名曰安樂。其國有佛。號阿彌陀如來至真等正覺明行成為善逝世間解無上士道法御天人師。號曰眾祐。度人無量。若有得聞無量壽如來名者。一心信樂。持諷誦念。當起廣遠無量歡喜。安立其意。令使真諦。十萬億信心。念斯如來。其人當得無量之福。永當遠離三塗之厄。命終之後。皆得往生彼佛剎土。命欲終時。一心信樂。念不忘舍阿彌陀佛。將諸眾僧。住其人前。魔終不能毀壞斯等正覺之心。所以者何。其佛世尊。興立大悲。誓度一切無量眾生。亦復護持十方世界一切眾生。其有得生安樂世界。舍利弗。其佛世尊。本弘誓願。其有求於第一之乘。於其世界。具滿如來諸佛之法。具正覺分。求聲聞乘。於彼佛剎。得阿羅漢。其有往生彼佛剎者。從其所願。大小之乘。於彼畢滿。其有最後聞阿彌陀如來名號。贊說之者。信不狐疑。當起敬心至意念之如念父母作如是念。斯等普當於彼佛國。具滿眾願。其有不信讚歎稱揚阿彌陀佛名號功德而毀謗者五劫之中。當墮地獄。具受眾苦。

          (Lại này Xá Lợi Phất! Từ phương Tây cõi này qua khỏi mười vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là An Lạc. Cõi ấy có Phật hiệu là A Di Đà Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vi Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư; hiệu là Chúng Hựu, độ người vô lượng. Nếu có ai được nghe tên của Vô Lượng Thọ Như Lai, một dạ tin ưa, vâng giữ, tụng niệm, hãy nên dấy lên vô lượng niềm hoan hỷ rộng sâu, an lập ý mình, khiến cho chân đế, mười vạn tín tâm niệm đức Như Lai ấy, người đó sẽ được vô lượng phước, sẽ vĩnh viễn xa lìa nỗi khổ ách trong tam đồ. Sau khi mạng chung, đều được sanh về cõi nước Phật ấy. Khi mạng sắp hết, một dạ tin ưa, nghĩ nhớ chẳng quên bỏ thì A Di Đà Phật dẫn các vị Tăng đứng trước người ấy. Ma trọn chẳng thể hủy hoại cái tâm Chánh Giác của những người ấy được. Vì cớ sao vậy? Đức Phật Thế Tôn ấy dấy lòng đại bi, thề độ hết thảy vô lượng chúng sanh, lại còn hộ trì mười phương thế giới hết thảy chúng sanh để họ được sanh về thế giới An Lạc.

          Này Xá Lợi Phất! Đức Phật Thế Tôn ấy vốn có thệ nguyện rộng lớn, nếu có kẻ nào cầu Đệ Nhất Thừa, sẽ ở trong thế giới của Ngài, trọn đủ viên mãn pháp của chư Phật Như Lai, trọn đủ Chánh Giác phần. Kẻ cầu Thanh Văn thừa, sẽ ở trong cõi Phật ấy, đắc quả A La Hán. Những ai đã sanh về cõi Phật ấy, tùy theo ý nguyện, thảy đều viên mãn các thừa Đại hay Tiểu. Có kẻ nào đến phút cuối cùng nghe khen nói danh hiệu A Di Đà Như Lai, bèn tin tưởng, chẳng hồ nghi, hãy nên dấy lòng cung kính, dốc chí niệm Phật như nghĩ nhớ cha mẹ, trì niệm như thế. Hạng người ấy sẽ trọn đủ các nguyện trong cõi Phật ấy. Có kẻ nào chẳng tin tưởng, chẳng tán thán, xưng dương công đức của danh hiệu A Di Đà Phật, mà hủy báng, sẽ trong năm kiếp, đọa vào địa ngục, chịu đủ mọi nỗi khổ).

 

Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Đà La Ni Thần Chú Kinh

(千眼千臂觀世音菩薩陀羅尼神咒經)

 

          Na mô a mị đà bà da (CBETA, T20, no.1057a, p.84, b1).

          娜謨阿弭陀婆耶。

          (Namo Amitābhāya).

 

* Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh

(千手千眼觀世音菩薩廣大圓滿無礙大悲心陀羅尼經)

         

          Diệc ưng chuyên niệm ngã Bổn Sư A Di Đà Như Lai (CBETA, T20, no.1060, p.107, a4-5)

          亦應專念我本師阿彌陀如來。

          (Cũng nên chuyên niệm Bổn Sư của ta là A Di Đà Như Lai).

 

Phật Thuyết A Di Đà Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni Kinh

(佛說阿彌陀鼓音聲王陀羅尼經)

         

          Như thị ngã văn, nhất thời, Phật tại Chiêm Ba đại thành, Già Già linh trì, dữ đại tỳ-kheo chúng ngũ bách nhân câu. Nhĩ thời, Thế Tôn cáo chư tỳ-kheo: “Kim đương vị nhữ diễn thuyết, Tây Phương An Lạc thế giới, kim hiện hữu Phật, hiệu A Di Đà. Nhược hữu tứ chúng, năng chánh thọ trì bỉ Phật danh hiệu. Dĩ thử công đức, lâm dục chung thời, A Di Đà Phật tức dữ đại chúng, vãng thử nhân sở, linh kiến đắc kiến. Kiến dĩ tầm sanh khánh duyệt, bội tăng công đức. Dĩ thị nhân duyên, sở sanh chi xứ, vĩnh ly bào thai uế dục chi hình, thuần xử tiên diệu bảo liên hoa trung, tự nhiên hóa sanh, cụ đại thần thông, quang minh hách dịch. Nhĩ thời, thập phương hằng sa chư Phật, giai cộng tán bỉ An Lạc thế giới sở hữu Phật pháp bất khả tư nghị. Thần thông hiện hóa chủng chủng phương tiện bất khả tư nghị. Nhược hữu năng tín như thị chi sự, đương tri thị nhân bất khả tư nghị, sở đắc nghiệp báo diệc bất khả tư nghị”(CBETA, T12, no.370, p.352, b10-21).

          如是我聞。一時。佛在瞻波大城伽伽靈池。與大比丘眾五百人俱。爾時世尊告諸比丘。今當為汝演說。西方安樂世界。今現有佛。號阿彌陀。若有四眾。能正受持彼佛名號。以此功德。臨欲終時。阿彌陀佛即與大眾往此人所。令見得見。見已尋生慶悅。倍增功德。以是因緣。所生之處。永離胞胎穢欲之形。純處鮮妙寶蓮華中。自然化生。具大神通。光明赫奕。爾時十方恆沙諸佛。皆共贊彼安樂世界所有佛法不可思議。神通現化種種方便不可思議。若有能信如是之事。當知是人不可思議。所得業報亦不可思議。

          (Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Phật ngự tại đại thành Chiêm Ba, nơi ao thiêng Già Già, cùng với các vị đại tỳ-kheo, năm trăm người cùng nhóm họp. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các vị tỳ-kheo: – Nay ta sẽ vì các ông diễn nói thế giới An Lạc ở phương Tây, nay đang có Phật hiệu là A Di Đà. Nếu có tứ chúng có thể thọ trì chân chánh danh hiệu của đức Phật ấy. Do công đức ấy, khi sắp mạng chung, A Di Đà Phật liền cùng đại chúng đến chỗ người ấy, khiến cho người ấy trông thấy. [Người ấy] đã thấy bèn sanh lòng vui mừng, công đức tăng gấp bội. Do nhân duyên đó, chỗ sẽ sanh về đều vĩnh viễn lìa khỏi thân thể trong bào thai do dục vọng ô uế hợp thành, mà thuần là ở trong hoa sen báu tươi tắn, mầu nhiệm, tự nhiên hóa sanh, trọn đủ đại thần thông, quang minh rạng rỡ. Khi ấy, mười phương hằng sa chư Phật đều cùng khen ngợi thế giới An Lạc có Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, thần thông hóa hiện các loại phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có kẻ nào có thể tin tưởng chuyện như thế này, hãy nên biết người ấy chẳng thể nghĩ bàn, đạt được nghiệp báo cũng chẳng thể nghĩ bàn).

 

* Phật Thuyết Phật Danh Kinh

(佛說佛名經)

 

          Tây Phương vô cấu thanh tịnh độ, danh vi An Lạc Diệu thế giới, bỉ tự tại Phật vô lượng thọ. Bồ Tát đệ tử hiện vi nhiễu. Nam-mô Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật. Nam-mô Tây Phương A Di Đà Phật (CBETA, T14, no.440).

          西方無垢清凈土。名為安樂妙世界。彼自在佛無量壽。菩薩弟子現圍繞。南無西方無量壽佛。南無西方阿彌陀佛。

          (Cõi nước thanh tịnh vô cấu ở phương Tây có tên là thế giới An Lạc Diệu, đức Phật tự tại trong cõi ấy vô lượng thọ, các vị đệ tử Bồ Tát nay đang vây quanh. Nam-mô Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật, nam-mô Tây Phương A Di Đà Phật).

 

Hiền Kiếp Thiên Phật Danh Kinh

(賢劫千佛名經)

 

          Nam-mô Vô Lượng Thọ Phật (CBETA, T14, no.447a, p.378, a5-6).

          南無無量壽佛。

         

* Bách Phật Danh Kinh

(百佛名經)

 

          Nam-mô A Di Đà Phật (CBETA, T14, no.444, p.354, c23).

          南無阿彌陀佛。

 

Phật Thuyết Bất Tư Nghị Công Đức Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh

(佛說不思議功德諸佛所護念經)

 

          Tây Phương A Di Đà Như Lai. Tây Phương Vô Lượng Quang Như Lai. Tây Phương Vô Biên Quang Như Lai (CBETA, T14, no.445).

          西方阿彌陀如來。西方無量光如來。西方無邊光如來

 

Ly Cấu Huệ Bồ Tát Sở Vấn Lễ Phật Pháp Kinh

(離垢慧菩薩所問禮佛法經)

 

          Nam-mô Tây Phương Vô Lượng Thọ Như Lai (CBETA, T14, no.487, p.690, a21).

          南無西方無量壽如來。

 

* Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh

(大毗盧遮那成佛神變加持經)

 

          Đương đắc vô lượng thọ. Ứng hiện thù đặc thân. Nhất thiết hoạn trừ tức. Thiên nhân hàm cung kính (CBETA, T18, no.848, p.20, c13-15).

          當得無量壽。應現殊特身。一切患除息。天人咸恭敬。

          (Sẽ đắc vô lượng thọ, ứng hiện thân thù đặc, hết thảy hoạn trừ dứt, trời người đều cung kính).

 

Kim Cang Đảnh Du Già Trung Lược Xuất Niệm Tụng Kinh

(金剛頂瑜伽中略出念誦經)

 

          Quy mạng A Di Đà (CBETA, T18, no.866, p.223, c6-7).

          歸命阿彌陀。

 

Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Bất Không Vương Bí Mật Tâm Đà La Ni Kinh

(聖觀自在菩薩不空王秘密心陀羅尼經)

 

          Hựu phục quy mạng Vô Lượng Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác (CBETA, T20, no.1099, p.444, c5-6).

          又復歸命無量光如來應供正等正覺。

          (Lại còn quy mạng Vô Lượng Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

Nhất Thiết Như Lai Đại Bí Mật Vương Vị Tằng Hữu Tối Thượng Vi Diệu Đại Mạn Noa La Kinh

(一切如來大秘密王未曾有最上微妙大曼拏羅經)

 

          A Di Đà Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật nãi thị tam giới trung bí mật pháp chủ đại A Xà Lê, vô tướng, vô tánh, bất sanh, bất diệt. Tuy trụ bí mật, vô bí mật tướng. Hậu A Xà Lê diệc tu như thị phân minh liễu tri (CBETA, T18, no.889, p.546, a21-24).

          阿彌陀佛毗盧遮那佛。乃是三界中秘密法主大阿闍梨。無相無性。不生不滅。雖住秘密。無秘密相。后阿闍梨亦須如是分明了知。

          (A Di Đà Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật là bí mật pháp chủ đại A Xà Lê trong tam giới, vô tánh, vô tướng, bất sanh, bất diệt. Tuy trụ trong bí mật, chẳng có tướng bí mật. Các A Xà Lê về sau cũng cần phải hiểu rõ phân minh như thế).

 

Đại Phương Quảng Bồ Tát Tạng Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nghi Quỹ Kinh

(大方廣菩薩藏文殊師利根本儀軌經)

 

          Ngã vị lợi ích nhất thiết hữu tình, phục thuyết Phật danh. Nẵng-mô Vô Lượng Thọ Quyết Định Trí Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nẵng-mô Sa La Hoa Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nẵng-mô Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác (CBETA, T20, no.1191, p.892, c1-4).

          我為利益一切有情。復說佛名。曩謨無量壽決定智王如來應正等覺。曩謨娑羅華王如來應正等覺。曩謨無量壽無量光如來應正等覺。

          (Ta vì lợi ích hết thảy hữu tình, lại nói danh hiệu Phật: Nam-mô Vô Lượng Thọ Quyết Định Trí Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nam-mô Sa La Hoa Vương Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nam-mô Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác).

 

Phật Thuyết Đại Bi Không Trí Kim Cang Đại Giáo Vương Nghi Quỹ Kinh

(佛說大悲空智金剛大教王儀軌經)

 

          Vô Lượng Thọ Như Lai nhi vi bổn tôn (CBETA, T18, no.892, p.601, b3-4).

          無量壽如來而為本尊。

          (Vô Lượng Thọ Như Lai làm bổn tôn).

 

Kim Cang Đảnh Du Già Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu Hành Nghi Quỹ Kinh

(金剛頂瑜伽千手千眼觀自在菩薩修行儀軌經)

         

          Thứ lễ Tây Phương Vô Lượng Thọ Như Lai đẳng nhất thiết Như Lai. Như tiền triển thân, kim cang hiệp chưởng, trí ư đảnh thượng, dĩ khẩu trước địa, chí thành kính lễ (CBETA, T20, no.1056, p.72, c1-2).

          次禮西方無量壽如來等一切如來。如前展身。金剛合掌。置於頂上。以口着地。至誠敬禮。

          (Kế đó, lễ hết thảy các vị Như Lai như Tây Phương Vô Lượng Thọ Như Lai v.v… Duỗi thân giống như trước, chắp tay theo lối Kim Cang[2], đặt trên đỉnh đầu, miệng áp sát đất, chí thành kính lễ).

 

* Kim Cang Đảnh Du Già Tha Hóa Tự Tại Thiên Lý Thú Hội Phổ Hiền Tu Hành Niệm Tụng Nghi Quỹ

(金剛頂瑜伽他化自在天理趣會普賢修行念誦儀軌)

 

          Đại bi A Di Đà, thành tựu bất không nghiệp. Thử chư vô thượng tôn, ngã giai khể thủ lễ, vị dục thỉnh cầu chuyển pháp luân, xả thân cúng dường Vô Lượng Thọ. Kim Cang hiệp chưởng trí đảnh thượng, dĩ khẩu trước địa phụng kỳ thân (CBETA, T20, no.1122).

          大悲阿彌陀。成就不空業。此諸無上尊。我皆稽首禮。為欲請求轉法輪。捨身供養無量壽。金剛合掌置頂上。以口着地奉其身。

          (Đại bi A Di Đà Phật, thành tựu nghiệp bất không[3]. Con đều dập đầu lễ các vị vô thượng tôn ấy, vì muốn thỉnh cầu chuyển pháp luân, bèn xả thân cúng dường Vô Lượng Thọ Phật. Chắp tay theo lối Kim Cang đặt trên đỉnh đầu, áp miệng sát đất để tôn phụng thân Phật).

 

Kim Cang Vương Bồ Tát Bí Mật Niệm Tụng Nghi Quỹ

(金剛王菩薩秘密念誦儀軌)

 

          Hựu dĩ hiệp chưởng trí ư đảnh thượng, dĩ khẩu trước địa, lễ Tây Phương Vô Lượng Thọ Như Lai, dĩ thân phụng hiến (CBETA, T20, no.1132, p.571, b18-19).

          又以合掌置於頂上。以口着地。禮西方無量壽如來。以身奉獻。

          (Lại chắp tay đặt trên đỉnh đầu, áp miệng sát đất, lễ Tây Phương Vô Lượng Thọ Như Lai, đem thân dâng hiến).

 

* Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ

(金剛頂瑜伽三十七尊禮)

 

          Nam-mộ thọ dụng trí huệ thân A Di Đà Phật (CBETA, T18, no.879, p.337, b3).

          南慕受用智慧身阿彌陀佛。

          (Nam-mô thọ dụng trí huệ thân A Di Đà Phật).

 

* Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi

(瑜伽集要焰口施食儀)

 

          Nam-mô pháp giới tạng thân A Di Đà Phật (CBETA, T21, no.1320, p.474, c29).

          南無法界藏身阿彌陀佛。

 

* Nhất Thiết Bí Mật Tối Thượng Danh Nghĩa Đại Giáo Vương Nghi Quỹ

(一切秘密最上名義大教王儀軌)

         

          Tối thượng Đại Thừa ly cấu nhiễm, hỷ tương ứng hạnh cực quảng đại, thanh tịnh quang minh oánh triệt tâm. Thử tức danh vi Vô Lượng Thọ (CBETA, T18, no.888, p.538, c11-13).

          最上大乘離垢染。喜相應行極廣大。清凈光明瑩徹心。此即名為無量壽。

          (Đại Thừa tối thượng, lìa cấu nhiễm, hỷ tương ứng hạnh cực rộng lớn, tâm quang minh thanh tịnh trong suốt, đấy bèn gọi là Vô Lượng Thọ).

 

* Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận Dị Hành Phẩm

(十住毗婆沙論易行品)

 

          A Di Đà Phật bổn nguyện như thị, nhược nhân niệm ngã xưng danh tự quy, tức nhân tất định đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị cố thường ưng ức niệm, dĩ kệ xưng tán:

          – Vô lượng quang minh huệ, thân như chân kim sơn. Ngã kim thân khẩu ý, hiệp chưởng khể thủ lễ. Kim sắc diệu quang minh. Phổ lưu chư thế giới. Tùy vật thị kỳ sắc. Thị cố khể thủ lễ. Nhược nhân mạng chung thời, đắc sanh bỉ quốc giả, tức cụ vô lượng đức. Thị cố ngã quy mạng. Nhân năng niệm thị Phật. Vô lượng lực công đức. Tức thời tất nhập Định. Thị cố ngã thường niệm. Bỉ quốc nhân mạng chung, thiết ưng thọ chư khổ. Bất đọa ác địa ngục. Thị cố quy mạng lễ. Nhược nhân sanh bỉ quốc, chung bất đọa tam thú, cập dữ A Tu La. Ngã kim quy mạng lễ. Nhân thiên thân tương đồng, do như kim sơn đảnh. Chư thắng sở quy xứ. Thị cố đầu diện lễ. Kỳ hữu sanh bỉ quốc, cụ thiên nhãn nhĩ thông. Thập phương phổ vô ngại. Khể thủ thánh trung tôn. Kỳ quốc chư chúng sanh. Thần Biến cập Tâm Thông. Diệc cụ Túc Mạng Trí. Thị cố quy mạng lễ. Sanh bỉ quốc độ giả. Vô ngã, vô ngã sở. Bất sanh bỉ thử tâm. Thị cố khể thủ lễ. Siêu xuất tam giới ngục. Mục như liên hoa diệp. Thanh Văn chúng vô lượng. Thị cố khể thủ lễ. Bỉ quốc chư chúng sanh. Kỳ tánh giai nhu hòa. Tự nhiên hành Thập Thiện. Khể thủ chúng thánh chủ. Tùng thiện sanh tịnh minh. Vô lượng vô biên số. Nhị túc trung đệ nhất. Thị cố ngã quy mạng. Nhược nhân nguyện tác Phật. Tâm niệm A Di Đà. Ứng thời vị hiện thân. Thị cố ngã quy mạng. Bỉ Phật bổn nguyện lực. Thập phương chư Bồ Tát. Lai cúng dường thính pháp. Thị cố ngã khể thủ. Bỉ độ chư Bồ Tát. Cụ túc chư tướng hảo, dĩ tự trang nghiêm thân. Ngã kim quy mạng lễ. Bỉ chư đại Bồ Tát. Nhật nguyệt ư tam thời, cúng dường thập phương Phật. Thị cố khể thủ lễ. Nhược nhân chủng thiện căn. Nghi tắc hoa bất khai, tín tâm thanh tịnh giả, hoa khai tắc kiến Phật. Thập phương hiện tại Phật. Dĩ chủng chủng nhân duyên. Thán bỉ Phật công đức. Ngã kim quy mạng lễ. Kỳ độ cụ nghiêm sức. Thù bỉ chư thiên cung. Công đức thậm thâm hậu. Thị cố lễ Phật túc. Phật túc thiên bức luân. Nhu nhuyễn liên hoa sắc. Kiến giả giai hoan hỷ. Đầu diện lễ Phật túc. Mi gian bạch hào quang. Do như thanh tịnh nguyệt. Tăng ích diện quang sắc. Đầu diện lễ Phật túc. Bổn cầu Phật đạo thời, hành chư kỳ diệu sự. Như chư kinh sở thuyết. Đầu diện khể thủ lễ. Bỉ Phật sở ngôn thuyết. Phá trừ chư tội căn. Mỹ ngôn đa sở ích. Ngã kim khể thủ lễ. Dĩ thử mỹ ngôn thuyết, cứu chư trước lạc bệnh. Dĩ độ, kim do độ. Thị cố khể thủ lễ. Nhân thiên trung tối tôn. Chư thiên đầu diện lễ. Thất bảo quan ma-ni. Thị cố ngã quy mạng. Nhất thiết hiền thánh chúng. Cập chư nhân thiên chúng. Hàm giai cộng quy mạng. Thị cố ngã diệc lễ. Thừa bỉ bát đạo thuyền. Năng độ nan độ hải. Tự độ diệc độ bỉ. Ngã lễ tự tại giả. Chư Phật vô lượng kiếp, tán dương kỳ công đức, do thượng bất năng tận. Quy mạng thanh tịnh nhân. Ngã kim diệc như thị. Xưng tán vô lượng đức. Dĩ thị phước nhân duyên. Nguyện Phật thường niệm ngã. Ngã ư kim tiên thế. Phước đức nhược đại tiểu. Nguyện ngã ư Phật sở. Tâm thường đắc thanh tịnh. Dĩ thử phước nhân duyên. Sở hoạch thượng diệu đức. Nguyện chư chúng sanh loại. Giai diệc tất đương đắc (CBETA, T26, no.1521, p.43).

          阿彌陀佛本願如是。若人念我稱名自歸。即人必定得阿耨多羅三藐三菩提。是故常應憶念。以偈稱讚。無量光明慧。身如真金山。我今身口意。合掌稽首禮。金色妙光明。普流諸世界。隨物示其色。是故稽首禮。若人命終時。得生彼國者。即具無量德。是故我歸命。人能念是佛。無量力功德。即時必入定。是故我常念。彼國人命終。設應受諸苦。不墮惡地獄。是故歸命禮。若人生彼國。終不墮三趣。及與阿修羅。我今歸命禮。人天身相同。猶如金山頂。諸勝所歸處。是故頭面禮。其有生彼國。具天眼耳通。十方普無礙。稽首聖中尊。其國諸眾生。神變及心通。亦具宿命智。是故歸命禮。生彼國土者。無我無我所。不生彼此心。是故稽首禮。超出三界獄。目如蓮華葉。聲聞眾無量。是故稽首禮。彼國諸眾生。其性皆柔和。自然行十善。稽首眾聖主。從善生凈明。無量無邊數。二足中第一。是故我歸命。若人願作佛。心念阿彌陀。應時為現身。是故我歸命。彼佛本願力。十方諸菩薩。來供養聽法。是故我稽首。彼土諸菩薩。具足諸相好。以自莊嚴身。我今歸命禮。彼諸大菩薩。日月於三時。供養十方佛。是故稽首禮。若人種善根。疑則花不開。信心清凈者。花開則見佛。十方現在佛。以種種因緣。嘆彼佛功德。我今歸命禮。其土具嚴飾。殊彼諸天宮。功德甚深厚。是故禮佛足。佛足千輻輪。柔軟蓮華色。見者皆歡喜。頭面禮佛足。眉間白毫光。猶如清凈月。增益面光色。頭面禮佛足。本求佛道時。行諸奇妙事。如諸經所說。頭面稽首禮。彼佛所言說。破除諸罪根。美言多所益。我今稽首禮。以此美言說。救諸着樂病。已度今猶度。是故稽首禮。人天中最尊。諸天頭面禮。七寶冠摩尼。是故我歸命。一切賢聖眾。及諸人天眾。咸皆共歸命。是故我亦禮。乘彼八道船。能度難度海。自度亦度彼。我禮自在者。諸佛無量劫。讚揚其功德。猶尚不能盡。歸命清凈人。我今亦如是。稱讚無量德。以是福因緣。願佛常念我。我於今先世。福德若大小。願我於佛所。心常得清凈。以此福因緣。所獲上妙德。願諸眾生類。皆亦悉當得。

          (Bổn nguyện của A Di Đà Phật là như thế này: “Nếu có người nào nghĩ đến ta, xưng danh hiệu, tự quy y, người ấy nhất định sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Vì thế, hãy thường nên nghĩ nhớ, dùng kệ để ca ngợi:

          – Vô lượng quang minh huệ, thân như núi vàng ròng. Nay con dốc ba nghiệp, chắp tay dập đầu lễ. Diệu quang minh sắc vàng, lan khắp các thế giới, hiện màu tùy theo vật. Vì thế, con đảnh lễ. Nếu ai lúc mạng chung, được sanh về cõi ấy, liền đủ vô lượng đức. Do vậy, con quy mạng. Ai niệm đức Phật ấy, vô lượng sức công đức, ngay lập tức nhập Định. Vì thế, con thường niệm. Người cõi ấy mạng chung, đáng lẽ chịu các khổ, chẳng đọa ác địa ngục. Do vậy, quy mạng lễ. Nếu ai sanh cõi ấy, trọn chẳng đọa tam đồ, và làm A Tu La. Con nay quy mạng lễ. Thân trời người giống hệt, ví như đỉnh núi vàng. Chỗ tuyệt diệu dồn về. Do vậy, đầu mặt lễ. Nếu ai sanh cõi ấy, trọn thiên nhãn nhĩ thông. Mười phương đều vô ngại. Kính lạy thánh trung tôn. Các chúng sanh cõi ấy, Thần Biến và Tâm Thông, cũng có Túc Mạng Thông. Do vậy, quy mạng lễ. Kẻ sanh cõi nước ấy, vô ngã, vô ngã sở, chẳng sanh tâm đây kia. Vì thế, con đảnh lễ. Vượt thoát ngục ba cõi, mắt như cánh hoa sen, chúng Thanh Văn vô lượng. Do vậy, con đảnh lễ. Các chúng sanh cõi ấy, tánh tình đều nhu hòa. Tự nhiên hành Thập Thiện. Đảnh lễ Chúng Thánh Chúa, do thiện sanh tịnh minh, vô lượng vô biên số. Đấng Nhị Túc bậc nhất. Do vậy, con quy mạng. Nếu ai nguyện làm Phật, tâm niệm A Di Đà, Ngài lập tức hiện thân. Cho nên con quy mạng. Sức bổn nguyện của Phật, mười phương các Bồ Tát, đến cúng dường, nghe pháp. Do vậy, con đảnh lễ. Các Bồ Tát cõi ấy, trọn đủ các tướng hảo, để tự trang nghiêm thân. Con nay quy mạng lễ, các đại Bồ Tát ấy, ngày tháng trong ba thời, cúng dường mười phương Phật. Vì thế, con đảnh lễ. Nếu ai gieo thiện căn. Nghi ngờ hoa chẳng nở. Kẻ tín tâm thanh tịnh, hoa nở bèn thấy Phật. Mười phương hiện tại Phật, dùng đủ mọi nhân duyên, khen công đức Phật ấy, con nay quy mạng lễ. Cõi ấy trọn trang hoàng, vượt trỗi các cung trời, công đức rất sâu dầy. Nên con lễ chân Phật. Chân Phật tướng ngàn căm, mềm mại, màu như sen, người thấy đều hoan hỷ. Đầu mặt lễ chân Phật. Bạch hào quang giữa mày. Ví như trăng thanh tịnh, sắc mặt càng rạng rỡ. Đầu mặt lễ chân Phật. Vốn khi cầu Phật đạo, làm các chuyện kỳ diệu, như các kinh đã nói, đầu mặt tiếp túc lễ. Những lời Phật ấy nói, phá trừ các gốc tội, lời hay, nhiều lợi ích, con nay xin đảnh lễ. Dùng lời đẹp đẽ ấy, cứu những căn bệnh ham lạc. Đã độ, nay vẫn độ. Vì thế, con kính lễ. Bậc quý nhất trời người, chư thiên đều đảnh lễ. Mão bảy báu ma-ni. Do vậy, con quy mạng. Hết thảy các thánh hiền, và đại chúng trời người, thảy đều cùng quy mạng. Cho nên, con cũng lễ. Ngồi thuyền bát thánh đạo, vượt được biển khó vượt. Tự độ, cũng độ người. Con lễ đấng tự tại. Chư Phật vô lượng kiếp, tán dương công đức Ngài, hãy còn chẳng thể hết. Quy mạng đấng thanh tịnh, con nay cũng như thế. Khen ngợi vô lượng đức. Do phước nhân duyên này, nguyện Phật thường nhớ con. Con ở trong đời trước, phước đức lớn hay nhỏ, nguyện con từ nơi Phật, tâm thường đắc thanh tịnh. Do phước nhân duyên này, sẽ đạt phước thượng diệu. Nguyện các loài chúng sanh, cũng thảy đều sẽ đắc).

 


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.