Đời Tống Tuyên nghĩa lang Trần Quán soạn.
*
Tâm con người vốn vô thường, nên pháp cũng bất định. Tâm và pháp tuy sai biệt nhưng đồng nhất lý tánh. Tin lý tánh này là chánh tín, cho nên kinh Hoa Nghiêm nói Thập tín. Nghi lý tánh này là mê tín, vì vậy, Trí Giả nói Thập nghi. Ra khỏi nghi vào tín, một lần vào là vĩnh viễn không lìa lý tánh mà chứng đạt chỗ cứu cánh.
Cảnh giới Tịnh độ chính là chỗ cứu cánh. Ở cõi này có vị giáo chủ tên là Vô Lượng Thọ. Ngài thường thuyết pháp không lúc nào gián đoạn. Nghi làm chướng ngại tai mình, nên điếc mà không nghe. Nghi làm chướng ngại tâm mình, nên mờ mịt không hiểu.
Kẻ đã không nghe không hiểu, thì thường an trú trong tập quán ác. Kẻ đó khen ngợi sự biếng nhác, tùy hỷ với tâm phiền não. Điên đảo chỉ thai sen là hư dối, không thật; rốt cục không rõ được thân phần đoạn này do đâu mà có, từ đâu mà đến.
Ngục tù uế độ, an trụ vĩnh viễn, tin vào nghiệp thức, tự xa lìa chân lý, ở trong cảnh huyễn mê chấp kia, đời đời bản tánh không linh hiển, muôn kiếp đường Thánh tuyệt lộ. Do bởi như thế, Đức Thích-ca Như Lai khởi tâm đại bi thương xót, thị hiện vào cõi uế độ, phát âm thanh pháp to lớn, tán thán mọi sự trang nghiêm vi diệu của cõi Cực lạc.
Ở trong biển sinh tử, làm vị đại thuyền trưởng, chở đầy thuyền pháp để vớt chúng sinh đưa vào bờ Tịnh độ, ngày đêm miệt mài độ sinh, không có lúc nào gián đoạn.
Nhưng Tịnh độ của Di-đà vốn không có bờ này, bờ kia. Thuyền của Đức Thích-ca thật sự chẳng qua, chẳng lại. Ví như ánh sáng ngọn đèn, phóng ra xung quanh tám tấm gương; mặt gương tuy có Đông, Tây nhưng ánh sáng chỉ là một. Đức Di-đà thuyết pháp biến khắp trong ánh sáng; nhưng Đức Thích-ca dùng phương tiện chỉ bày duy nhất tấm gương phía Tây. Cho nên chúng sinh một khi qua bờ giác rồi, thời có thể quên bỉ thử.
Nhưng khi chưa nhập pháp giới, tất nên định hướng Đông, Tây. Ở trong pháp tu hành, nếu chưa đạt đến cứu cánh, thì đừng chấp bỉ thử, chớ phân rộng hẹp; chỉ cần chánh niệm tỉnh giác, một lòng tin tưởng mà thôi. Ý của hai vị Thánh đây, kẻ trí giả cần phải thực hiện.
Tín là mẹ của vạn điều thiện, nghi là cội gốc của muôn điều ác. Nếu ai phát triển công đức lành, tất có thể diệt trừ các tội ác. Chúng sinh nếu đầy chướng duyên. Nếu y theo pháp niệm Phật tu hành, thì điếc có thể nghe, mê có thể hiểu; chưa ra khỏi sinh tử mà đã xuất ly; chưa sinh về Tịnh độ mà đã có mặt ở Liên Trì; để rồi vâng theo lời dạy của Đức Thích-ca, đến ra mắt Đức Di-đà, trở lại Ta-bà trợ giúp Đức Thích-ca; ở cõi Tịnh độ mà phân thân khắp mười phương, tức là ngọn đèn ở phương Tây mà chiếu rọi các kính.
Pháp môn này kể từ khi hai vị Thánh kiến lập đến nay, số người chứng đắc như thế nhiều như số cát sông Hằng; làm sao lại không tin, làm sao lại nghi ngờ. Mỗi khi đã có tín tâm rồi, lại dùng sức phương tiện, hóa độ chúng sinh,; làm cho người chưa tín tâm không thể không tín tâm. Đây là chỗ nên làm của kẻ đại trí.
Bài văn Tịnh độ Thập Nghi của đại sư Trí Giả soạn, kẻ trí học đạo, không thuận theo văn Ngài mà thuận theo tâm đại bi của Ngài. Vì vậy lại ấn tống bản luận văn này, trước đã có Thứ công đề tựa; tôi lại hết sức mình, để trợ giúp cho việc truyền bá bản văn Tịnh độ Thập nghi này.
( Tịnh Độ Thập Nghi Luận – Theo Đại Tạng Kinh )