• Danh sách
  • Thể loại
    • 5 Periods of Buddha’s teachings - Ngũ Thời Giáo
    • A Basic Buddhism Guide
    • Accounts of Request and Response
    • Activities
    • Agama - Thời Kỳ A Hàm
    • Ấn Quang Đại Sư
    • Avatamsaka Period - Thời Kỳ Hoa Nghiêm
    • Basic Teachings
    • Bộ A Hàm
    • Buddhist Education in China
    • Buddhist Scriptures
    • Buddhist Scriptures
    • Buddhist Studies
    • Buddhist Sutras
    • Cao Tăng Quảng Khâm
    • Changing Destiny
    • Chinaese
    • Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 2
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 3
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 4
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 5
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 6
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 7
    • Chú Giải Vô Lượng Thọ Lần thứ 8
    • Chư Tổ - Cao Tăng
    • Chưa phân loại
    • Collected Talks
    • Contact
    • Cư Sĩ Lưu Tố Vân
    • Cultivation
    • Cultivation Hall
    • Cultivation Hall Rules
    • Curriculum
    • Daily Living
    • Dharma
    • Đại Đức Thích Đạo Thịnh
    • Đại sư Hành Sách
    • Đại sư Liên Trì
    • Đại sư Ngẫu Ích
    • Đại Tạng Kinh
    • Đệ Tử Quy
    • Đệ Tử Quy
    • Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh Giảng Ký
    • Đọc sách ngàn lần
    • EBook .Doc - .PDF
    • Essence of the Infinite Life Sutra
    • Eyewitness Accounts
    • Founder
    • Giảng Giải Kinh Sách
    • Giảng Kinh
    • Giảng Kinh Địa Tạng
    • Giảng Kinh Địa Tạng lần 1
    • Giảng Ý Nghĩa Pháp Hội Quán Âm TTHN
    • Glossary
    • Guidelines for Being a Good Person
    • Hán văn - 古文 - Cổ Văn
    • History and Culture
    • Hòa Thượng Diệu Liên
    • Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
    • Hòa Thượng Tịnh Không
    • Hòa Thượng Tịnh Không Khai thị
    • Học Chữ Hán Việt
    • Học Tập Văn Hóa Truyền Thống
    • Indonesian Translation
    • Khoa Học
    • Kinh điển Bắc truyền
    • Kinh điển Hán tạng đã Việt dịch
    • Kinh điển Nam truyền
    • Kinh Tạng
    • Kinh Vô Lượng Thọ 1994
    • Kinh Vô Lượng Thọ lần 10
    • Kinh Vô Lượng Thọ lần 11
    • Lão pháp sư Thích Tịnh Không
    • Lão pháp sư Thích Tịnh Không
    • Learning
    • Lotus Nirvana - Thời Kỳ Pháp Hoa và Niết Bàn
    • Luận Tạng
    • Luật Tạng
    • Main
    • Main Thoughts
    • Mission
    • More...
    • Mr. Li Bingnan
    • Ms. Han Yin
    • Nghi Thức Tụng Niệm
    • Nhạc Niệm Phật
    • Nhạc Phật Giáo
    • Nhân Quả Báo Ứng
    • Online Study Guide
    • Phần mềm ứng dụng Phật Pháp
    • Pháp ngữ
    • Pháp Sư Ngộ Thông
    • Phật giáo nước ngoài
    • Phật Học Vấn Đáp
    • Phiên âm Hán Việt - 古Cổ 文Văn
    • Phim Phật Giáo
    • Phim Tài Liệu
    • PLLCA Library
    • Prajnã Period - Thời Kỳ Bát Nhã
    • Primary & Secondary
    • Professor Fang Dongmei
    • Pure Land Buddhism
    • Pure Land Organizations
    • Quốc tế
    • Resources
    • Retreat Application
    • Retreats
    • Sách
    • Sách nói Audio
    • Sách Văn Học PG
    • Six Harmonies
    • Six Paramitas
    • Stories
    • Sử Phật Giáo
    • Sutra Excerpts
    • Sutra Stories
    • Sutras Books
    • Symbolism
    • Tam tạng Kinh điển Sanskrit - PALI
    • Teachers
    • Teachings
    • Ten Attainments
    • Ten Great Vows
    • Ten Virtuous Karmas Sutra
    • Ten-recitation Method
    • Thái Thượng Cảm Ứng Thiên
    • The Buddhist World
    • The Supreme Buddha
    • Theo dấu chân Phật - Hành Hương Đất Phật
    • Thiên Hạ Phụ Tử
    • Three Conditions
    • Threefold Learning
    • Timelines
    • Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
    • Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014
    • Tịnh Tông Học Viện
    • Tổ Tịnh Độ Tông
    • Training in the Traditional Way
    • Training Procedure
    • Trần Đại Huệ
    • Trích Đoạn Khai Thị
    • Trích Yếu
    • Tripitaka - 大藏經
    • Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm
    • Truyện Phật giáo
    • Truyện thiếu nhi song ngữ
    • Truyện Tranh Phật Giáo
    • Tụng Kinh
    • Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng thuật
    • Vaipulya Period - Thời Kỳ Phương Đẳng
    • Vấn Đáp Phật Pháp
    • Văn Học
    • Venerable Master Chin Kung: Books
    • Video
    • Video Pháp Âm
    • Visiting
    • Zhangjia Living Buddha
    • 中國 - Zhōngguó - Chinese
    • 人物故事 - Renwu - Câu Chuyện Nhân Vật
    • 佛教故事 - fojiaogushi
    • 佛经故事 - Fojing - Câu chuyện Phật
    • 古Cổ 文VănViệt
    • 哲理故事 - Zheli - Câu chuyện triết học
    • 漫畫 - Comics - Truyện tranh
    • 生活故事 - Shenghuo - Câu chuyện cuộc sống
  1. Trang chủ
  2. Kinh sách
  3. A Di Đà Phật Thánh Điển

  4. VI. Tu Hành Pháp Môn Chương

A Di Đà Phật Thánh Điển

VI. Tu Hành Pháp Môn Chương

Chương trước
Chương tiếp

Tu hành niệm Phật, pháp môn có nhiều đường lối, hoặc dùng trì danh, hoặc dùng quán tưởng, hoặc dùng lễ bái, cúng dường, hoặc dùng Tín – Nguyện, hoặc là Thiền, Giới, hoặc tu các công đức, hoặc dùng một pháp môn, hoặc dùng nhiều pháp môn. [Những pháp môn] đã được nêu rõ trong các kinh luận, mỗi pháp môn đều chuyên ứng với một căn cơ khế nhập riêng. Giáo tướng tuy khác nhau, đều là diệu pháp. Tu hành tuy khác nhau, nhưng chỗ hướng về là một, đều là Tịnh nghiệp, cùng về Tịnh Độ. Tu bất cứ một môn nào cũng đều có thể chứng nhập. Cốt yếu là phải trước sau như một, tin tưởng, tiếp nhận chẳng thay đổi. Chớ nên sáng đổi chiều thay, uổng phí ngày tháng mà thôi!

 

* Đại Phương Quảng Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới Kinh

(大方廣如來不思議境界經)

 

          Tức ư tượng tiền, đầu diện lễ túc, tác thị tư duy: “Ngã văn thập phương vô lượng chư Phật, kim hiện tại thế, sở vị Nhất Thiết Nghĩa Thành Phật, A Di Đà Phật” (CBETA, T10, no.301, p.911, a22-24).

          即於像前。頭面禮足。作是思惟。我聞十方無量諸佛。今現在世。所謂一切義成佛。阿彌陀佛。

          (Liền đối trước tượng, đầu mặt lễ dưới chân đức Phật, suy nghĩ như thế này: “Con nghe mười phương vô lượng chư Phật nay còn đang tại thế, như là Nhất Thiết Nghĩa Thành Phật, A Di Đà Phật”).

 

* Đại Bảo Tích Kinh, Phát Thắng Chí Nhạo Hội

(大寶積經發勝志樂會)

 

          Nhĩ thời Di Lặc Bồ Tát bạch Phật ngôn:

          – Thế Tôn! Như Phật sở thuyết A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới công đức lợi ích. Nhược hữu chúng sanh, phát thập chủng tâm, nhất nhất tâm chuyên niệm hướng ư A Di Đà Phật. Thị nhân mạng chung, đương đắc vãng sanh bỉ Phật thế giới. Thế Tôn! Hà đẳng danh vi phát thập chủng tâm? Do thị tâm cố, đương đắc vãng sanh bỉ Phật thế giới.

          Phật cáo Di Lặc Bồ Tát ngôn:

          – Di Lặc! Như thị thập tâm, phi chư phàm ngu bất thiện trượng phu chi sở năng phát. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, ư chúng sanh, khởi ư đại từ vô tổn hại tâm. Nhị giả, ư chư chúng sanh, khởi ư đại bi vô bức não tâm. Tam giả, ư Phật chánh pháp, bất tích thân mạng, nhạo thủ hộ tâm. Tứ giả, ư nhất thiết pháp, phát sanh thắng nhẫn vô chấp trước tâm. Ngũ giả bất tham lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng tịnh ý nhạo tâm. Lục giả, cầu Phật Chủng Trí, ư nhất thiết thời vô vong thất tâm. Thất giả, ư chư chúng sanh, tôn trọng cung kính, vô hạ liệt tâm. Bát giả, bất trước thế luận, ư Bồ Đề phần, sanh quyết định tâm. Cửu giả, chủng chư thiện căn, vô hữu tạp nhiễm, thanh tịnh chi tâm. Thập giả, ư chư Như Lai, xả ly chư tướng, khởi tùy niệm tâm.

          Di Lặc! Thị danh Bồ Tát phát thập chủng tâm. Do thị tâm cố, đương đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới.

          Di Lặc! Nhược nhân ư thử thập chủng tâm trung, tùy thành nhất tâm, nhạo dục vãng sanh bỉ Phật thế giới, nhược bất đắc sanh, vô hữu thị xứ (CBETA, T11, no.310, p.528, b18-c7).

          爾時彌勒菩薩白佛言。世尊。如佛所說阿彌陀佛極樂世界功德利益。若有眾生。發十種心。一一心專念向於阿彌陀佛。是人命終。當得往生彼佛世界。世尊。何等名為發十種心。由是心故。當得往生彼佛世界。佛告彌勒菩薩言。彌勒。如是十心。非諸凡愚不善丈夫之所能發。何等為十。一者於諸眾生起於大慈無損害心。二者於諸眾生起於大悲無逼惱心。三者於佛正法不惜身命樂守護心。四者於一切法發生勝忍無執着心。五者不貪利養恭敬尊重凈意樂心。六者求佛種智於一切時無忘失心。七者於諸眾生尊重恭敬無下劣心。八者不着世論於菩提分生決定心。九者種諸善根無有雜染清凈之心。十者於諸如來舍離諸相起隨念心。彌勒。是名菩薩發十種心。由是心故。當得往生阿彌陀佛極樂世界。彌勒。若人於此十種心中。隨成一心。樂欲往生彼佛世界。若不得生。無有是處。

          (Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng:

          – Bạch đức Thế Tôn! Như Phật đã nói về công đức và lợi ích trong thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật. Nếu có chúng sanh phát ra mười thứ tâm, mỗi một tâm đều chuyên niệm hướng về A Di Đà Phật, người ấy mạng chung, sẽ được sanh về thế giới của đức Phật ấy.

          Bạch đức Thế Tôn! Như thế nào thì gọi là phát ra mười loại tâm; do những tâm ấy, sẽ được sanh về thế giới của đức Phật ấy?

          Đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:

          – Mười tâm như thế, chẳng phải là phàm phu hoặc trượng phu bất thiện mà có thể phát khởi được. Những gì là mười?

          Một là đối với chúng sanh, khởi tâm đại từ không tổn hại.

          Hai là đối với chúng sanh, khởi tâm đại bi, không bức bách, não hại.

          Ba là đối với chánh pháp của Phật, tâm chẳng tiếc thân mạng, ưa thích bảo vệ.

          Bốn là đối với hết thảy các pháp, phát sanh tâm nhẫn thù thắng, chẳng chấp trước.

          Năm là tâm chẳng tham lợi dưỡng, yêu thích thanh tịnh, cung kính tôn trọng.

          Sáu là tâm cầu Phật Chủng Trí, trong hết thảy các thời, chẳng quên mất.

          Bảy là đối với các chúng sanh, tâm tôn trọng, cung kính, chẳng coi rẻ.

          Tám là tâm chẳng vướng mắc nơi luận định của thế gian, sanh tâm quyết định đối với Bồ Đề phần.

          Chín là tâm thanh tịnh gieo các thiện căn, chẳng có tạp nhiễm.

          Mười là đối với các Như Lai, tâm lìa bỏ các tướng, dấy lòng tùy niệm.

          Này Di Lặc! Đấy gọi là Bồ Tát phát mười loại tâm. Do những tâm ấy, sẽ được vãng sanh thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật.

          Này Di Lặc! Nếu người nào đối với mười tâm này, hễ thành tựu một tâm nào, ưa thích mong sanh về thế giới của đức Phật ấy mà nếu chẳng được sanh, chẳng có lẽ ấy!)

 

* Bát Châu tam-muội kinh

(般舟三昧經)

 

          Kỳ hữu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di trì giới hoàn cụ, độc nhất xứ chỉ, tâm niệm Tây Phương A Di Đà Phật kim hiện tại. Tùy sở văn đương niệm, khứ thị gian thập ức vạn Phật sát. Kỳ quốc danh Tu Ma Đề. Tại chúng Bồ Tát trung ương thuyết kinh, nhất thiết thường niệm A Di Đà Phật. Phật cáo Bạt Đà Hòa:

          – Thí như nhân ngọa, xuất ư mộng trung, kiến sở hữu kim, ngân, trân bảo, phụ mẫu, huynh đệ, thê tử, thân thuộc, tri thức, tương dữ ngu lạc, hỷ lạc vô bối. Giác dĩ, vị nhân thuyết chi, hậu tự lệ xuất, niệm mộng trung sở kiến như thị.

          Bạt Đà Hòa Bồ Tát! Nhược sa-môn, bạch y sở văn Tây Phương A Di Đà Phật sát, thường niệm bỉ phương Phật, bất đắc khuyết giới, nhất tâm niệm, nhược nhất trú dạ, nhược thất nhật thất dạ, quá thất nhật dĩ hậu, kiến A Di Đà Phật. Ư giác bất kiến, ư mộng trung kiến chi. Thí như mộng trung sở kiến, bất tri trú, bất tri dạ, bất tri nội, bất tri ngoại, bất dụng tại minh trung cố bất kiến, bất dụng hữu sở tế ngại cố bất kiến.

          Như thị Bạt Đà Hòa Bồ Tát! Tâm đương tác thị niệm, thời chư Phật quốc cảnh giới danh, đại sơn, Tu Di sơn, kỳ hữu u minh chi xứ, tất vi khai tỵ, mục diệc bất tế, tâm diệc bất ngại. Thị Bồ Tát Ma Ha Tát, bất trì Thiên Nhãn triệt thị, bất trì Thiên Nhĩ triệt thính, bất trì Thần Túc đáo kỳ Phật sát, bất ư thị gian chung, sanh bỉ gian, Phật sát nãi kiến. Tiện ư thị gian, tọa kiến A Di Đà Phật. Văn sở thuyết kinh tất thọ, đắc tùng tam-muội trung, tất năng cụ túc vị nhân thuyết chi.

          Như thị Bạt Đà Hòa Bồ Tát! Ư thị gian quốc độ, văn A Di Đà Phật số số niệm, dụng thị niệm cố, kiến A Di Đà Phật. Kiến Phật dĩ, tùng vấn đương trì hà đẳng pháp sanh A Di Đà Phật quốc. Nhĩ thời, A Di Đà Phật ngữ thị Bồ Tát ngôn: “Dục lai sanh ngã quốc giả, thường niệm ngã số số thường đương thủ niệm, mạc hữu hưu tức. Như thị đắc lai sanh ngã quốc”. Phật ngôn: “Thị Bồ Tát dụng thị niệm Phật cố, đương đắc sanh A Di Đà Phật quốc” (CBETA, T13, no.418, p.905).

          其有比丘比丘尼優婆塞優婆夷。持戒完具。獨一處止。心念西方阿彌陀佛今現在。隨所聞當念去是間十億萬佛剎。其國名須摩提。在眾菩薩中央說經。一切常念阿彌陀佛。佛告跋陀惒。譬如人卧。出於夢中。見所有金銀珍寶父母兄弟妻子親屬知識。相與娛樂。喜樂無背。覺已為人說之。后自淚出。念夢中所見如是。跋陀惒菩薩。若沙門白衣所聞西方阿彌陀佛剎。常念彼方佛。不得缺戒。一心念。若一晝夜。若七日七夜。過七日已后。見阿彌陀佛。於覺不見。於夢中見之。譬如夢中所見。不知晝。不知夜。不知內。不知外。不用在冥中故不見。不用有所蔽礙故不見。如是跋陀惒菩薩。心當作是念。時諸佛國境界名大山須彌山。其有幽冥之處。悉為開闢。目亦不蔽。心亦不礙。是菩薩摩訶薩。不持天眼徹視。不持天耳徹聽。不持神足到其佛剎。不於是間終生彼間。佛剎乃見。便於是間坐見阿彌陀佛。聞所說經悉受。得從三昧中。悉能具足為人說之。如是跋陀惒菩薩。於是間國土。聞阿彌陀佛數數念。用是念故。見阿彌陀佛。見佛已。從問當持何等法生阿彌陀佛國。爾時阿彌陀佛語是菩薩言。欲來生我國者。常念我數數常當守念。莫有休息。如是得來生我國。佛言。是菩薩用是念佛故。當得生阿彌陀佛國。

          (Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di giữ giới toàn vẹn, ở một mình, tâm niệm Tây Phương A Di Đà Phật nay đang hiện hữu. Vừa được nghe [danh hiệu của Phật], bèn nghĩ cách nơi này mười ức vạn cõi Phật, có một cõi nước tên là Tu Ma Đề (Sumati)[7], đức Phật đang ở chính giữa các vị Bồ Tát nói kinh, hết thảy hãy thường niệm A Di Đà Phật. Đức Phật bảo Bạt Đà Hòa (Bhadra-pāla, Hiền Hộ):

          – Ví như có người nằm ngủ, từ trong mộng thấy tất cả những thứ như vàng, bạc, các món quý báu, cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, người quen biết, vui sướng với nhau, mừng vui chẳng chống trái. Tỉnh giấc, kể lại với người khác, sau đó, ứa lệ, nghĩ tới trong mộng đã thấy những chuyện như thế.

          Này Bạt Đà Hòa Bồ Tát! Nếu hàng sa-môn hoặc kẻ tại gia nghe nói đến cõi Phật A Di Đà ở phương Tây, thường nghĩ đến đức Phật ở phương đó, chớ nên thiếu sót giới, hãy nhất tâm niệm, hoặc một ngày đêm, hoặc bảy ngày bảy đêm. Sau bảy ngày bảy đêm, thấy A Di Đà Phật, hoặc là khi tỉnh thì không thấy, trong mộng thì thấy. Ví như được thấy trong mộng, chẳng biết là ngày, chẳng biết là đêm, chẳng biết là trong, chẳng biết là ngoài, chẳng do ở trong nơi tối tăm mà chẳng thấy, chẳng do vì có những thứ ngăn che, trở ngại mà chẳng thấy.

          Như thế đó, này Bạt Đà Hòa Bồ Tát! Tâm hãy thường nghĩ như thế này, khi ấy, những quả núi to hữu danh, núi Tu Di, những chỗ tối tăm trong cõi nước của chư Phật thảy đều rỗng rang, mắt cũng chẳng bị ngăn che, tâm cũng chẳng bị chướng ngại. Vị Bồ Tát Ma Ha Tát ấy chẳng do Thiên Nhãn mà thấy thấu suốt, chẳng do Thiên Nhĩ mà nghe thấu suốt, chẳng dùng Thần Túc để đến cõi Phật ấy, chẳng chết từ cõi này sanh sang cõi kia rồi mới thấy cõi Phật ấy, mà là ngồi ở trong thế gian này, trông thấy A Di Đà Phật. Nghe Ngài nói kinh, ắt thọ trì, những gì đạt được từ trong tam-muội ắt đều có thể nói trọn đủ cho người khác nghe.

          Như thế đó Bạt Đà Hòa Bồ Tát! Trong cõi nước thuộc thế gian này, nghe [danh hiệu] A Di Đà Phật bèn nhiều lượt niệm; do vì niệm Phật mà thấy A Di Đà Phật. Đã thấy Phật rồi, bèn hỏi hãy nên trì những pháp nào để sanh về cõi A Di Đà Phật. Lúc bấy giờ, A Di Đà Phật bảo vị Bồ Tát ấy rằng: “Muốn sanh về nước ta, hãy thường niệm ta nhiều lần, hãy thường nên giữ gìn tâm niệm ấy, đừng ngơi nghỉ. Như thế thì sẽ được sanh về nước ta”.

          Đức Phật bảo: “Vị Bồ Tát ấy do niệm Phật mà sẽ được sanh về cõi A Di Đà Phật”).

 

* Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh, Hiền Hộ Phần

(大方等大集經賢護分)

 

          Phục thứ Hiền Hộ! Vân hà danh vi Bồ Tát tư duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội dã?

          Hiền Hộ! Nhược hữu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thanh tịnh trì giới, cụ túc chư hạnh, độc xử không nhàn, như thị tư duy: Ư nhất thiết xứ, tùy hà phương sở, tức nhược Tây Phương A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Thị nhân nhĩ thời, như sở văn dĩ, tức ưng tự tác như thị tưởng niệm: Như ngã sở văn, bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, kim tại Tây phương, kinh đồ khứ thử bách thiên ức chư Phật quốc độ. Bỉ hữu thế giới, danh viết An Lạc. Như thị Như Lai kim hiện tại bỉ, vị chư Bồ Tát châu táp vi nhiễu, xử đại chúng trung, thuyết pháp giáo hóa. Nhiên nhi thị nhân y sở văn cố, hệ niệm tư duy, quán sát bất dĩ, liễu liễu phân minh. Chung hoạch kiến bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác dã.

          Phục thứ Hiền Hộ! Thí như thế gian, nhược nam, nhược nữ, ư thùy mộng trung, kiến chủng chủng sự, sở vị kim, ngân, chúng bảo, trân tài, thương khố, hoặc kiến bằng hữu, chư tri thức bối, hoặc kiến giác thời tâm bất nhạo giả. Thị nhân mộng trung, sở đối cảnh giới, hoặc vi, hoặc thuận, hoặc ưu, hoặc hỷ, hữu thời ngôn ngữ, hoan hân cực lạc, hữu thời tháo thích, tận ý bi ai. Thị nhân ngụ dĩ, tư duy ức niệm, như mộng sở kiến, vị tha quảng tuyên, truy niệm mộng trung, tiện sanh ưu hỷ.

          Như thị Hiền Hộ! Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân đoan tọa hệ niệm, chuyên tâm tưởng bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác như thị tướng hảo, như thị oai nghi, như thị đại chúng, như thị thuyết pháp, như thị hệ niệm, nhất tâm tương tục, thứ đệ bất loạn. Hoặc kinh nhất nhật, hoặc phục nhất dạ. Như thị hoặc chí thất nhật thất dạ, như tiên sở văn, cụ túc niệm cố, thị nhân tất đổ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác dã. Nhược ư trú thời bất năng kiến giả, nhược ư dạ phần, hoặc thùy mộng trung, A Di Đà Phật tất đương hiện dã.

          Phục thứ Hiền Hộ! Thí như thế gian, nhược nam, nhược nữ, viễn hành tha quốc. Ư thùy mộng trung, kiến bổn cư gia, thời thật bất tri vi trú, vi dạ, nhi diệc bất tri vi nội, vi ngoại. Thị nhân nhĩ thời sở hữu nhãn căn, tường, bích, sơn, thạch, chung bất năng chướng, nãi chí u minh hắc ám, diệc bất vi ngại dã.

          Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát tâm vô chướng ngại, diệc phục như thị. Đương chánh niệm thời, ư bỉ sở hữu Phật sát trung gian, phàm thị nhất thiết Tu Di sơn vương, cập Thiết Vy sơn, Đại Thiết Vy sơn, nãi chí bách dư chư hắc sơn đẳng, bất năng dữ thử nhãn căn vi chướng, nhi diệc bất phục phú tế thử tâm. Nhiên thị nhân giả, kỳ thật vị đắc Thiên Nhãn, năng kiến bỉ Phật; diệc vô Thiên Nhĩ, văn bỉ pháp âm. Phục phi thần thông, vãng bỉ thế giới. Hựu diệc bất ư thử thế giới một, sanh bỉ Phật tiền, nhi thật đản tại thử thế giới trung, tích niệm huân tu, cửu quán minh lợi. Cố chung đắc đổ bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác, tăng chúng vi nhiễu, Bồ Tát hội trung, hoặc kiến tự thân, tại bỉ thính pháp. Văn dĩ ức niệm, thọ trì tu hành. Hoặc thời phục đắc cung kính lễ bái, tôn thừa cúng dường bỉ A Di Đà Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác.

          Hiền Hộ! Bỉ thiện nam tử thiện nữ nhân đẳng, nhược dục thành tựu Bồ Tát Ma Ha Tát tư duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, diệc phục như thị. Kỳ thân thường trụ thử thế giới trung, tạm đắc văn bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác danh hiệu, nhi năng hệ tâm tương tục tư duy, thứ đệ bất loạn, phân minh đổ bỉ A Di Đà Phật. Thị vi Bồ Tát tư duy cụ túc thành tựu Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Nhân thử tam-muội đắc kiến Phật cố.

          Chư thiện nam tử! Nhược nhữ kim dục chánh niệm Phật giả, đương như thị niệm. Kim giả A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, cụ hữu như thị tam thập nhị tướng, bát thập tùy hành hảo, thân sắc quang minh, như dung kim tụ, cụ túc thành tựu. Chúng bảo liễn dư, phóng đại quang minh, tọa sư tử tòa, sa-môn chúng trung, thuyết như thị pháp. Kỳ sở thuyết giả, vị nhất thiết pháp bổn lai bất hoại, diệc vô hoại giả. Như bất hoại Sắc nãi chí bất hoại Thức đẳng chư Ấm cố. Hựu như bất hoại Địa, nãi chí bất hoại Phong đẳng chư Đại cố. Hựu bất hoại Sắc, nãi chí bất hoại Xúc đẳng chư Nhập cố. Hựu bất hoại Phạm, nãi chí bất hoại nhất thiết Thế Chủ đẳng. Như thị nãi chí bất niệm bỉ Như Lai, diệc bất đắc bỉ Như Lai. Bỉ tác như thị niệm Như Lai dĩ, như thị thứ đệ đắc Không tam-muội.

          Thiện nam tử! Thị danh chánh niệm Chư Phật Hiện Tiền tam-muội dã (CBETA, T13, no.416).

          復次。賢護。云何名為菩薩思惟諸佛現前三昧也。賢護。若有比丘比丘尼優婆塞優婆夷。清凈持戒。具足諸行。獨處空閑。如是思惟。於一切處。隨何方所。即若西方阿彌陀如來應供等正覺。是人爾時。如所聞已。即應自作如是想念。如我所聞。彼阿彌陀如來應供等正覺。今在西方。經途去此百千億諸佛國土。彼有世界。名曰安樂。如是如來今現在彼。為諸菩薩周匝圍繞。處大眾中。說法教化。然而是人依所聞故。繫念思惟。觀察不已。了了分明。終獲見彼阿彌陀如來應供等正覺也。復次。賢護。譬如世間。若男若女。於睡夢中。見種種事。所謂金銀眾寶珍財倉庫。或見朋友諸知識輩。或見覺時心不樂者。是人夢中。所對境界。或違或順。或憂或喜。有時言語。歡欣極樂。有時躁戚。盡意悲哀。是人寤已。思惟憶念。如夢所見。為他廣宣。追念夢中。便生憂喜。如是賢護。彼善男子善女人。端坐繫念。專心想彼阿彌陀如來應供等正覺。如是相好。如是威儀。如是大眾。如是說法。如是繫念。一心相續。次第不亂。或經一日。或復一夜。如是或至七日七夜。如先所聞。具足念故。是人必睹阿彌陀如來應供等正覺也。若於晝時不能見者。若於夜分或睡夢中。阿彌陀佛必當現也。復次賢護。譬如世間。若男若女。遠行他國。於睡夢中。見本居家。時實不知為晝為夜。而亦不知為內為外。是人爾時所有眼根。牆壁石山。終不能障。乃至幽冥黑暗。亦不為礙也。賢護。菩薩摩訶薩。心無障礙。亦復如是。當正念時。於彼所有佛剎中間。凡是一切須彌山王及鐵圍山大鐵圍山。乃至百餘諸黑山等。不能與此眼根為障。而亦不復覆蔽此心。然是人者。其實未得天眼。能見彼佛。亦無天耳。聞彼法音。復非神通。往彼世界。又亦不於此世界。沒生彼佛前。而實但在此世界中。積念薰修。久觀明利。故終得睹彼阿彌陀如來應等正覺。僧眾圍繞。菩薩會中。或見自身。在彼聽法。聞已憶念。受持修行。或時復得恭敬禮拜。尊承供養彼阿彌陀如來應等正覺。

          賢護。彼善男子善女人等。若欲成就菩薩摩訶薩思惟一切諸佛現前三昧。亦復如是。其身常住此世界中。暫得聞彼阿彌陀如來應供等正覺名號。而能繫心相續思惟。次第不亂。分明睹彼阿彌陀佛。是為菩薩思惟具足成就諸佛現前三昧。因此三昧得見佛故。

          諸善男子。若汝今欲正念佛者。當如是念。今者阿彌陀如來應供等正覺明行足善逝世間解無上士調御丈夫天人師佛世尊。具有如是三十二相。八十隨行好。身色光明。如融金聚。具足成就。眾寶輦輿。放大光明。坐師子座。沙門眾中。說如是法。其所說者。謂一切法本來不壞。亦無壞者。如不壞色。乃至不壞識等諸陰故。又如不壞地。乃至不壞風等諸大故。又不壞色。乃至不壞觸等諸入故。又不壞梵。乃至不壞一切世主等。如是乃至不念彼如來。亦不得彼如來。彼作如是念如來已。如是次第得空三昧。善男子。是名正念諸佛現前三昧也。

          (Lại nữa, Hiền Hộ! Như thế nào thì gọi là Bồ Tát tư duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội?

          Này Hiền Hộ! Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di trì giới thanh tịnh, trọn đủ các hạnh, ở một mình nơi chỗ vắng vẻ, tư duy như thế này: Trong hết thảy các chỗ, tùy theo một phương nào đó, chẳng hạn như Tây Phương A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Khi đó, người ấy đúng theo những điều đã được nghe, hãy nên tự suy niệm như thế này: “Như tôi được nghe, đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, nay đang ở phương Tây, cách đây qua khỏi trăm ngàn ức cõi nước của chư Phật. Nơi đó, có thế giới tên là An Lạc. Đức Như Lai như vậy nay đang ở đó, được các vị Bồ Tát quây quần vây quanh. Ngài ở giữa đại chúng thuyết pháp, giáo hóa”. Nhưng người ấy do dựa theo những điều đã được nghe mà hệ niệm tư duy, quán sát chẳng ngơi, rành rẽ, phân minh, rốt cuộc được thấy đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác.

          Lại này Hiền Hộ! Ví như trong thế gian, hoặc nam hay nữ, trong khi nằm ngủ, mộng thấy đủ mọi chuyện, như là vàng, bạc, các thứ của báu, tài vật trân quý, hoặc gặp bằng hữu, các vị tri thức, hoặc thấy những kẻ mà trong khi chính mình tỉnh ngủ sẽ chẳng ưa mến. Người ấy ở trong mộng, đối với những cảnh giới hoặc nghịch, hoặc thuận, hoặc lo, hoặc mừng. Có khi nói năng, vui vẻ, hết sức sung sướng; có lúc bộp chộp, bứt rứt, hết sức đau buồn. Người ấy tỉnh giấc, suy nghĩ, tưởng nhớ, nói rộng rãi với người khác những điều đã thấy trong mộng; nhớ lại những chuyện trong mộng bèn sanh lòng buồn hay vui.

          Như thế đó, Hiền Hộ! Kẻ thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy ngồi ngay ngắn, hệ niệm, chuyên tâm tưởng đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác có tướng hảo như thế, oai nghi như thế, đại chúng như thế, thuyết pháp như thế. Hệ niệm như thế, một dạ tiếp nối, theo đúng thứ tự chẳng loạn. Hoặc trải qua một ngày, hoặc lại là một đêm. Như thế hoặc là đến bảy ngày bảy đêm, đúng như trước đó đã nghe [mà hệ niệm]. Do niệm trọn đủ, người ấy ắt thấy A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Nếu vào ban ngày mà chẳng thể thấy, thì hoặc là vào ban đêm, hoặc trong khi nằm mộng, A Di Đà Phật ắt sẽ hiện thân.

          Lại này Hiền Hộ! Ví như trong thế gian, kẻ nam hay người nữ, đi xa qua nước khác, trong khi ngủ, nằm mộng thấy căn nhà của chính mình ở, lúc đó, thật sự chẳng biết là ngày hay đêm, mà cũng chẳng biết là trong hay ngoài. Khi ấy, đối với người ấy, tất cả tường, vách, núi, đá, trọn chẳng thể chướng ngại nhãn căn vốn có. Cho đến chỗ u minh, tăm tối, cũng chẳng thể ngăn ngại.

          Này Hiền Hộ! Tâm của Bồ Tát Ma Ha Tát vô chướng ngại cũng giống như thế. Trong khi đang chánh niệm, đối với người ấy, trong tất cả các cõi Phật, phàm là hết thảy núi chúa Tu Di và núi Thiết Vy, núi Đại Thiết Vy, cho đến hơn trăm tòa hắc sơn đều chẳng thể chướng ngại nhãn căn của người ấy, mà cũng chẳng còn ngăn lấp cái tâm người ấy. Nhưng người ấy thật ra chưa đắc Thiên Nhãn mà có thể thấy đức Phật ấy, cũng chưa đắc Thiên Nhĩ mà nghe pháp âm của Ngài. Lại chẳng có thần thông mà đến thế giới ấy, lại cũng chẳng từ thế giới này chết đi mà sanh ra trước mặt đức Phật ấy, thật sự chỉ là ở trong thế giới này, tích lũy tâm niệm huân tu, do quán lâu ngày bèn sáng suốt, nhanh nhạy; cho nên rốt cuộc được thấy A Di Đà Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác, tăng chúng vây quanh, ở trong chúng hội của Bồ Tát, hoặc thấy chính mình nghe pháp nơi đó. Nghe rồi nghĩ nhớ, thọ trì, tu hành, hoặc có lúc lại được cung kính, lễ bái, tôn trọng, thừa sự, cúng dường đức A Di Đà Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác.

          Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, nếu muốn thành tựu Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền tam-muội do các Bồ Tát Ma Ha Tát tư duy thì cũng giống như vậy. Thân người ấy thường trụ trong thế giới này, do tạm được nghe danh hiệu của A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, bèn có thể cột tâm tư duy liên tục, theo thứ tự chẳng đoạn, phân minh thấy A Di Đà Phật. Đấy là Bồ Tát tư duy, thành tựu trọn đủ Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Do môn tam-muội này mà được thấy Phật.

          Các thiện nam tử! Nếu nay ông muốn chánh niệm đức Phật, hãy nên niệm như thế. Nay thì A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn có đầy đủ ba mươi hai tướng như thế, tám mươi tùy hành hảo, sắc thân, quang minh như khối vàng nung chảy, thành tựu trọn đủ. Xe cộ bằng các thứ báu, phóng đại quang minh, ngồi tòa sư tử, ở giữa chúng sa-môn, nói pháp như thế. Những điều Ngài đã nói như là: Hết thảy các pháp vốn bất hoại, mà cũng chẳng có gì hủy hoại. Như đối với các Ấm, chẳng hoại Sắc cho đến chẳng hoại Thức v.v… Lại như đối với các Đại, chẳng hoại Địa cho đến chẳng hoại Phong. Lại như đối với các Nhập, chẳng hoại Sắc cho đến chẳng hoại Xúc v.v… Lại chẳng hoại Phạm vương cho đến chẳng hoại hết thảy các vị Thế Chủ[8]. Như thế cho đến chẳng niệm đức Như Lai ấy, mà cũng chẳng đắc đức Như Lai ấy. Người ấy niệm Như Lai như thế rồi, sẽ như vậy mà lần lượt đắc Không tam-muội.

          Này thiện nam tử! Đấy gọi là Chánh Niệm Chư Phật Hiện Tiền tam-muội).

 

* Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh

(佛說無量壽經)

 

          Chư hữu chúng sanh văn kỳ danh hiệu, tín tâm hoan hỷ, nãi chí nhất niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc, tức đắc vãng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển, duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.

          Nhược hữu chúng sanh minh tín Phật trí, nãi chí Thắng Trí, tác chư công đức, tín tâm hồi hướng, thử chư chúng sanh, ư thất bảo trì trung, tự nhiên hóa sanh (CBETA, T12, no. 360).

          諸有眾生。聞其名號。信心歡喜。乃至一念。至心迴向。願生彼國。即得往生。住不退轉。唯除五逆誹謗正法。

          若有眾生明信佛智。乃至勝智。作諸功德。信心迴向。此諸眾生。於七寶池中。自然化生。

          (Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu của Ngài, tín tâm, hoan hỷ, thậm chí một niệm, chí tâm hồi hướng, nguyện sanh về cõi ấy, sẽ liền được vãng sanh, trụ Bất Thoái Chuyển, chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.

          Nếu có chúng sanh tin hiểu rõ ràng Phật trí, cho đến Thắng Trí, làm các công đức, tín tâm hồi hướng, những chúng sanh ấy sẽ tự nhiên hóa sanh trong ao bảy báu).

 

* Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh

(大乘無量壽莊嚴經)

         

          Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân phát thập chủng tâm. Sở vị nhất bất thâu đạo, nhị bất sát sanh, tam bất dâm dục, tứ bất vọng ngôn, ngũ bất ỷ ngữ, lục bất ác khẩu, thất bất lưỡng thiệt, bát bất tham, cửu bất sân, thập bất si. Như thị trú dạ tư duy Cực Lạc thế giới Vô Lượng Thọ Phật chủng chủng công đức, chủng chủng trang nghiêm, chí tâm quy y, đảnh lễ cúng dường. Thị nhân mạng chung, bất kinh, bất bố, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh bỉ Phật quốc độ (CBETA, T12, no.363, p.323, b25-c2).

          若有善男子善女人。發十種心。所謂一不偷盜。二不殺生。三不淫慾。四不妄言。五不綺語。六不惡口。七不兩舌。八不貪。九不嗔。十不痴。如是晝夜思惟極樂世界無量壽佛種種功德。種種莊嚴。志心歸依。頂禮供養。是人命終。不驚不怖。心不顛倒。即得往生彼佛國土。

          (Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân phát mười loại tâm, tức là: Một là chẳng trộm cắp, hai là chẳng sát sanh, ba là chẳng dâm dục, bốn là chẳng nói dối, năm là chẳng nói lời thêu dệt, sáu là chẳng nói lời thô ác, bảy là chẳng nói đôi chiều, tám là chẳng tham, chín là chẳng sân, mười là chẳng si. Ngày đêm tư duy các thứ công đức, các thứ trang nghiêm như thế của Vô Lượng Thọ Phật trong thế giới Cực Lạc, chí tâm quy y, đảnh lễ cúng dường. Người ấy mạng chung, chẳng kinh hoảng, chẳng sợ hãi, tâm chẳng điên đảo, liền được sanh về cõi nước Phật ấy).

 

* Phật Thuyết Quán Vô LượngThọ Phật Kinh

(佛說觀無量壽佛經)

 

          Dục sanh bỉ quốc giả, đương tu tam phước. Nhất giả, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp. Nhị giả, thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi. Tam giả, phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả. Như thử tam sự, danh vi Tịnh nghiệp. Phật cáo Vi Đề Hy: “Nhữ kim tri phủ? Thử tam chủng nghiệp nãi thị quá khứ, vị lai, hiện tại tam thế chư Phật tịnh nghiệp chánh nhân”.

          Phàm tác tưởng giả, nhất thiết chúng sanh, tự phi sanh manh, hữu mục chi đồ, giai kiến nhật một, đương khởi tưởng niệm, chánh tọa Tây hướng, đế quán ư nhật, dục một chi xứ, linh tâm kiên trụ, chuyên tưởng bất di. Kiến nhật dục một, trạng như huyền cổ. Ký kiến nhật dĩ, bế mục, khai mục, giai linh minh liễu. Thị vi Nhật Tưởng, danh viết Sơ Quán.

          Thứ tác thủy tưởng, kiến thủy trừng thanh, diệc linh minh liễu, vô phân tán ý. Ký kiến thủy dĩ, đương khởi băng tưởng. Kiến băng ánh triệt, tác lưu ly tưởng. Thử tưởng thành dĩ, kiến lưu ly địa, nội ngoại ánh triệt. Hạ hữu kim cang thất bảo kim tràng, kình lưu ly địa. Kỳ tràng bát phương, bát lăng cụ túc. Nhất nhất phương diện, bách bảo sở thành. Nhất nhất bảo châu, hữu thiên quang minh. Nhất nhất quang minh, bát vạn tứ thiên sắc, ánh lưu ly địa, như ức thiên nhật, bất khả cụ kiến. Lưu ly địa thượng, dĩ hoàng kim thằng, tạp xí gián thác, dĩ thất bảo giới, phân tễ phân minh. Nhất nhất bảo trung, hữu ngũ bách sắc quang. Kỳ quang như hoa, hựu tự tinh nguyệt, huyền xử hư không, thành quang minh đài. Lâu, các thiên vạn, bách bảo hợp thành. Ư đài lưỡng biên, các hữu bách ức hoa tràng. Vô lượng nhạc khí, dĩ vi trang nghiêm. Bát chủng thanh phong, tùng quang minh xuất, cổ thử nhạc khí, diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã chi âm. Thị vị Thủy Tưởng, danh đệ nhị Quán. Thử tưởng thành thời, nhất nhất quán chi, cực linh liễu liễu. Bế mục, khai mục, bất linh tán thất. Duy trừ thực thời, hằng ức thử sự. Như thử tưởng giả, danh vi thô kiến Cực Lạc quốc địa. Nhược đắc tam-muội, kiến bỉ quốc địa, liễu liễu phân minh, bất khả cụ thuyết. Thị vi Địa Tưởng, danh đệ tam Quán…

          Địa tưởng thành dĩ, thứ quán bảo thụ. Quán bảo thụ giả, nhất nhất quán chi. Tác thất trùng hàng thụ tưởng, nhất nhất thụ cao bát thiên do-tuần. Kỳ chư bảo thụ, thất bảo hoa diệp, vô bất cụ túc. Nhất nhất hoa diệp, tác dị bảo sắc. Lưu ly sắc trung, xuất kim sắc quang. Pha lê sắc trung, xuất hồng sắc quang. Mã não sắc trung, xuất xa cừ quang. Xà cừ sắc trung, xuất lục chân châu quang. San hô, hổ phách, nhất thiết chúng bảo, dĩ vi ánh sức. Diệu chân châu võng, di phú thụ thượng. Nhất nhất thụ thượng, hữu thất trùng võng, nhất nhất võng gian, hữu ngũ bách ức diệu hoa cung điện, như Phạm thiên cung. Chư thiên đồng tử, tự nhiên tại trung. Nhất nhất đồng tử, ngũ bách ức Thích Ca Tỳ Lăng Già ma-ni dĩ vi anh lạc. Kỳ ma-ni quang chiếu bách do-tuần, do như hòa hợp bách ức nhật nguyệt, bất khả cụ danh. Chúng bảo gián thác, sắc trung thượng giả. Thử chư bảo thụ, hàng hàng tương đương, diệp diệp tương thứ. Ư chúng diệp gian, sanh chư diệu hoa. Hoa thượng tự nhiên hữu thất bảo quả. Nhất nhất thụ diệp, tung quảng chánh đẳng, nhị thập ngũ do-tuần. Kỳ diệp thiên sắc, hữu bách chủng hoạch, như thiên anh lạc. Hữu chúng diệu hoa, tác Diêm Phù Đàn kim sắc, như toàn hỏa luân, uyển chuyển diệp gian, dũng sanh chư quả, như Đế Thích bình. Hữu đại quang minh, hóa thành tràng phan. Vô lượng bảo cái, thị bảo cái trung, ánh hiện tam thiên đại thiên thế giới nhất thiết Phật sự. Thập phương Phật quốc, diệc ư trung hiện. Kiến thử thụ dĩ, diệc đương thứ đệ, nhất nhất quán chi. Quán kiến thụ hành, chi, diệp, hoa, quả, giai linh phân minh. Thị vi Thụ Tưởng, danh đệ tứ Quán.

          Thứ đương tưởng thủy. Dục tưởng thủy giả, Cực Lạc quốc độ hữu bát trì thủy. Nhất nhất trì thủy, thất bảo sở thành. Kỳ bảo nhu nhuyễn, tùng Như Ý Châu Vương sanh, phân vi thập tứ chi. Nhất nhất chi tác thất bảo diệu sắc. Hoàng kim vi cừ. Cừ hạ giai dĩ tạp sắc kim cang, dĩ vi để sa. Nhất nhất thủy trung, hữu lục thập ức thất bảo liên hoa. Nhất nhất liên hoa, đoàn viên chánh đẳng thập nhị do-tuần. Kỳ ma-ni thủy, lưu chú hoa gian, tầm thụ thượng hạ. Kỳ thanh vi diệu, diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, chư Ba La Mật. Phục hữu tán thán chư Phật tướng hảo giả. Tùng Như Ý Châu Vương, dũng xuất kim sắc vi diệu quang minh. Kỳ quang hóa vi bách bảo sắc điểu, hòa minh ai nhã, thường tán niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Thị vi Bát Công Đức Thủy Tưởng, danh đệ ngũ Quán…

          Chúng bảo quốc độ, nhất nhất giới thượng, hữu ngũ bách ức bảo lâu các. Kỳ lâu các trung, vô lượng chư thiên tác thiên kỹ nhạc. Hựu hữu nhạc khí, huyền xử hư không, như thiên bảo tràng, bất cổ tự minh. Thử chúng âm trung, giai thuyết niệm Phật, niệm Pháp, niệm tỳ-kheo Tăng. Thử tưởng thành dĩ, danh vi thô kiến Cực Lạc thế giới bảo thụ, bảo địa, bảo trì. Thị vi Tổng Quán Tưởng, danh đệ lục Quán…

          Dục quán bỉ Phật giả, đương khởi tưởng niệm. Ư thất bảo địa thượng, tác liên hoa tưởng, linh kỳ liên hoa, nhất nhất diệp thượng, tác bách bảo sắc, hữu bát vạn tứ thiên mạch, do như thiên họa. Mạch hữu bát vạn tứ thiên quang, liễu liễu phân minh, giai linh đắc kiến. Hoa diệp tiểu giả, tung hoành nhị bách ngũ thập do-tuần. Như thị liên hoa, cụ hữu bát vạn tứ thiên diệp. Nhất nhất diệp gian, hữu bách ức ma-ni châu, dĩ vi ánh sức. Nhất nhất ma-ni châu, phóng thiên quang minh. Kỳ quang như cái, thất bảo hợp thành, biến phú địa thượng. Thích Ca Tỳ Lăng Già bảo, dĩ vi kỳ đài. Thử liên hoa đài, bát vạn Kim Cang Chân Thúc Ca bảo, Phạm ma-ni bảo, diệu chân châu võng, dĩ vi hiệu sức. Ư kỳ đài thượng, tự nhiên nhi hữu tứ trụ bảo tràng. Nhất nhất bảo tràng, như bách thiên vạn ức Tu Di sơn. Tràng thượng bảo mạn, như Dạ Ma thiên cung. Phục hữu ngũ bách ức vi diệu bảo châu, dĩ vi ánh sức. Nhất nhất bảo châu, hữu bát vạn tứ thiên quang. Nhất nhất quang tác bát vạn tứ thiên dị chủng kim sắc, nhất nhất kim sắc biến kỳ bảo độ. Xứ xứ biến hóa, các tác dị tướng, hoặc vi kim cang đài, hoặc tác chân châu võng, hoặc tác tạp hoa vân. Ư thập phương diện, tùy ý biến hiện, thi tác Phật sự. Thị vi Hoa Tòa Tưởng, danh đệ thất Quán…

          Tưởng bỉ Phật giả, tiên đương tưởng tượng, bế mục, khai mục, kiến nhất bảo tượng, như Diêm Phù Đàn kim sắc, tọa bỉ hoa thượng. Kiến tượng tọa dĩ, tâm nhãn đắc khai, liễu liễu phân minh, kiến Cực Lạc quốc, thất bảo trang nghiêm. Bảo địa, bảo trì, bảo thụ hàng liệt, chư thiên bảo mạn, di phú kỳ thượng. Chúng bảo la võng, mãn hư không trung. Kiến như thử sự, cực linh minh liễu, như quán chưởng trung. Kiến thử sự dĩ, phục đương cánh tác nhất đại liên hoa, tại Phật tả biên, như tiền liên hoa, đẳng vô hữu dị. Phục tác nhất đại liên hoa, tại Phật hữu biên. Tưởng nhất Quán Thế Âm Bồ Tát tượng, tọa tả hoa tòa, diệc tác kim sắc, như tiền vô dị. Tưởng nhất Đại Thế Chí Bồ Tát tượng, tọa hữu hoa tòa. Thử tưởng thành thời, Phật, Bồ Tát tượng, giai phóng quang minh. Kỳ quang kim sắc, chiếu chư bảo thụ. Nhất nhất thụ hạ, diệc hữu tam liên hoa. Chư liên hoa thượng, các hữu nhất Phật nhị Bồ Tát tượng, biến mãn bỉ quốc. Thử tưởng thành thời, hành giả đương văn thủy lưu, quang minh, cập chư bảo thụ, phù, nhạn, uyên ương, giai thuyết diệu pháp, xuất Định, nhập Định, hằng văn diệu pháp. Hành giả sở văn, xuất Định chi thời, ức trì bất xả, linh dữ Tu Đa La hợp. Nhược bất hợp giả, danh vi vọng tưởng. Nhược dữ hợp giả, danh vi thô tưởng kiến Cực Lạc thế giới. Thị vi Tưởng Tượng, danh đệ bát Quán…

          Vô Lượng Thọ Phật, thân như bách thiên ức Dạ Ma Thiên Diêm Phù Đàn kim sắc. Phật thân cao lục thập vạn na-do-tha Hằng hà sa do-tuần. Mi gian bạch hào, hữu toàn uyển chuyển, như ngũ Tu Di sơn. Phật nhãn như tứ đại hải thủy, thanh bạch phân minh. Thân chư mao khổng, diễn xuất quang minh như Tu Di sơn. Bỉ Phật viên quang, như bách ức tam thiên đại thiên thế giới. Ư viên quang trung, hữu bách vạn ức na-do Hằng hà sa hóa Phật. Nhất nhất hóa Phật, diệc hữu chúng đa vô số hóa Bồ Tát dĩ vi thị giả. Vô Lượng Thọ Phật hữu bát vạn tứ thiên tướng, nhất nhất tướng trung, các hữu bát vạn tứ thiên tùy hình hảo. Nhất nhất hảo trung, các hữu bát vạn tứ thiên quang minh. Nhất nhất quang minh biến chiếu thậpphương thế giới niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả. Kỳ quang tướng hảo, cập dữ hóa Phật, bất khả cụ thuyết, đản đương ức tưởng, linh tâm nhãn kiến. Kiến thử sự giả, tức kiến thập phương nhất thiết chư Phật. Dĩ kiến chư Phật cố, danh Niệm Phật tam-muội. Tác thị quán giả, danh Quán Nhất Thiết Phật Thân…

          Quán Vô Lượng Thọ Phật giả, tùng nhất tướng hảo nhập, đản quán mi gian bạch hào, cực linh minh liễu. Kiến mi gian bạch hào tướng giả, bát vạn tứ thiên tướng hảo, tự nhiên đương hiện. Kiến Vô Lượng Thọ Phật giả, tức kiến thập phương vô lượng chư Phật. Đắc kiến vô lượng chư Phật cố, chư Phật hiện tiền thọ ký. Thị vi Biến Quán Nhất Thiết Sắc Thân Tưởng, danh đệ cửu Quán…

          Kiến Vô Lượng Thọ Phật, liễu liễu phân minh dĩ. Thứ diệc ưng quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Thử Bồ Tát thân trường bát thập vạn ức na-do-tha do-tuần. Thân tử kim sắc, đảnh hữu nhục kế. Hạng hữu viên quang, diện các bách thiên do-tuần. Kỳ viên quang trung, hữu ngũ bách hóa Phật, như Thích Ca Mâu Ni. Nhất nhất hóa Phật, hữu ngũ bách hóa Bồ Tát, vô lượng chư thiên dĩ vi thị giả. Cử thân quang trung, ngũ đạo chúng sanh, nhất thiết thân tướng giai ư trung hiện. Đảnh thượng Tỳ Lăng Già Ma Ni bảo dĩ vi thiên quan. Kỳ thiên quan trung, hữu nhất lập hóa Phật, cao nhị thập ngũ do-tuần. Quán Thế Âm Bồ Tát, diện như Diêm Phù Đàn kim sắc. Mi gian hào tướng bị thất bảo sắc, lưu xuất bát vạn tứ thiên chủng quang minh. Nhất nhất quang minh, hữu vô lượng vô số bách thiên hóa Phật. Nhất nhất hóa Phật, vô số hóa Bồ Tát dĩ vi thị giả, biến hiện tự tại, mãn thập phương giới. Thí như hồng liên hoa sắc, hữu bát thập ức vi diệu quang minh dĩ vi anh lạc. Kỳ anh lạc trung, phổ hiện nhất thiết chư trang nghiêm sự. Thủ chưởng tác ngũ bách ức tạp liên hoa sắc. Thủ thập chỉ đoan. Nhất nhất chỉ đoan, hữu bát vạn tứ thiên hoạch, do như ấn văn. Nhất nhất hoạch hữu bát vạn tứ thiên sắc. Nhất nhất sắc hữu bát vạn tứ thiên quang. Kỳ quang nhu nhuyễn, phổ chiếu nhất thiết. Dĩ thử bảo thủ, tiếp dẫn chúng sanh. Cử túc thời, túc hạ hữu thiên bức luân tướng, tự nhiên hóa thành ngũ bách ức quang minh đài. Hạ túc thời, hữu kim cang ma-ni hoa, bố tán nhất thiết, mạc bất di mãn. Kỳ dư thân tướng, chúng hảo cụ túc, như Phật vô dị. Duy đảnh thượng nhục kế, cập Vô Kiến Đảnh Tướng, bất cập Thế Tôn. Thị vi Quán Thế Âm Bồ Tát Chân Thật Sắc Thân Tưởng, danh đệ thập Quán…

          Thứ quán Đại Thế Chí Bồ Tát. Thử Bồ Tát thân lượng đại tiểu, diệc như Quán Thế Âm. Viên quang diện các bách nhị thập ngũ do-tuần, chiếu nhị bách ngũ thập do-tuần. Cử thân quang minh, chiếu thập phương quốc, tác tử kim sắc. Hữu duyên chúng sanh, giai tất đắc kiến. Đản kiến thử Bồ Tát nhất mao khổng quang, tức kiến thập phương vô lượng chư Phật tịnh diệu quang minh. Thị cố hiệu thử Bồ Tát danh Vô Biên Quang. Dĩ trí huệ quang, phổ chiếu nhất thiết, linh ly tam đồ, đắc vô thượng lực. Thị cố hiệu thử Bồ Tát danh Đại Thế Chí. Thử Bồ Tát thiên quan, hữu ngũ bách bảo hoa. Nhất nhất bảo hoa, hữu ngũ bách bảo đài. Nhất nhất đài trung, thập phương chư Phật tịnh diệu quốc độ quảng trường chi tướng, giai ư trung hiện. Đảnh thượng nhục kế như Bát Đầu Ma hoa. Ư nhục kế thượng, hữu nhất bảo bình, thịnh chư quang minh, phổ hiện Phật sự. Dư chư thân tướng, như Quán Thế Âm, đẳng vô hữu dị. Thử Bồ Tát hành thời, thập phương thế giới nhất thiết chấn động, đương địa động xứ, hữu ngũ bách ức bảo hoa. Nhất nhất bảo hoa trang nghiêm cao hiển, như Cực Lạc thế giới. Thử Bồ Tát tọa thời, thất bảo quốc độ nhất thời dao động, tùng hạ phương Kim Quang Phật sát nãi chí thượng phương Quang Minh Vương Phật sát, ư thử trung gian, vô lượng trần số phân thân Vô Lượng Thọ Phật, phân thân Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, giai tất vân tập Cực Lạc quốc độ, tắc tắc không trung, tọa liên hoa tòa, diễn thuyết diệu pháp, độ khổ chúng sanh. Tác thử quán giả, danh vi Quán Kiến Đại Thế Chí Bồ Tát. Thị vi quán Đại Thế Chí sắc thân tướng. Quán thử Bồ Tát giả, danh vi đệ thập nhất Quán…

          Kiến thử sự thời, đương khởi tự tâm, sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới, ư liên hoa trung, kết già phu tọa, tác liên hoa hợp tưởng, tác liên hoa khai tưởng. Liên hoa khai thời, hữu ngũ bách sắc quang lai chiếu thân tưởng. Nhãn mục khai tưởng, kiến Phật, Bồ Tát mãn hư không trung. Thủy, điểu, thụ lâm, cập dữ chư Phật, sở xuất âm thanh, giai diễn diệu pháp, dữ thập nhị bộ kinh hợp. Xuất Định chi thời, ức trì bất thất, kiến thử sự dĩ, danh kiến Vô Lượng Thọ Phật Cực Lạc thế giới, thị vi Phổ Quán Tưởng, danh đệ thập nhị Quán…

          Nhược dục chí tâm sanh ư Tây phương giả, tiên đương quán ư nhất trượng lục tượng, tại trì thủy thượng, như tiên sở thuyết Vô Lượng Thọ Phật, thân lượng vô biên, phi thị phàm phu tâm lực sở cập. Nhiên bỉ Như Lai túc nguyện lực cố, hữu ức tưởng giả, tất đắc thành tựu. Đản tưởng Phật tượng, đắc vô lượng phước. Huống phục quán Phật cụ túc thân tướng. A Di Đà Phật thần thông như ý, ư thập phương quốc, biến hiện tự tại. Hoặc hiện đại thân, mãn hư không trung, hoặc hiện tiểu thân, trượng lục, bát xích. Sở hiện chi hình, giai chân kim sắc. Viên quang hóa Phật, cập bảo liên hoa. Như thượng sở thuyết, Quán Thế Âm Bồ Tát, cập Đại Thế Chí, ư nhất thiết xứ thân đồng. Chúng sanh đản quán thủ tướng, tri thị Quán Thế Âm, tri thị Đại Thế Chí. Thử nhị Bồ Tát trợ A Di Đà Phật phổ hóa nhất thiết. Thị vi Tạp Tưởng Quán, danh đệ thập tam Quán.

          Thượng phẩm thượng sanh giả, nhược hữu chúng sanh, nguyện sanh bỉ quốc giả, phát tam chủng tâm, tức tiện vãng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả chí thành tâm, nhị giả thâm tâm, tam giả hồi hướng phát nguyện tâm. Cụ tam tâm giả, tất sanh bỉ quốc. Phục hữu tam chủng chúng sanh, đương đắc vãng sanh. Hà đẳng vi tam? Nhất giả, từ tâm bất sát, cụ chư giới hạnh. Nhị giả, độc tụng Đại Thừa Phương Đẳng kinh điển. Tam giả, tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Cụ thử công đức, nhất nhật nãi chí thất nhật, tức đắc vãng sanh…

          Thượng phẩm trung sanh giả, bất tất thọ trì, độc tụng Phương Đẳng kinh điển, thiện giải nghĩa thú. Ư Đệ Nhất Nghĩa, tâm bất kinh động, thâm tín nhân quả, bất báng Đại Thừa. Dĩ thử công đức, hồi hướng nguyện cầu, sanh Cực Lạc quốc…

          Thượng phẩm hạ sanh giả, diệc tín nhân quả, bất báng Đại Thừa, đản phát vô thượng đạo tâm. Dĩ thử công đức, hồi hướng nguyện cầu, sanh Cực Lạc quốc…

          Trung phẩm thượng sanh giả, nhược hữu chúng sanh, thọ trì Ngũ Giới, trì Bát Giới Trai, tu hành chư giới, bất tạo Ngũ Nghịch, vô chúng quá hoạn. Dĩ thử thiện căn, hồi hướng nguyện cầu, sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới…

          Trung phẩm trung sanh giả, nhược hữu chúng sanh, nhược nhất nhật, nhất dạ, trì Bát Giới Trai. Nhược nhất nhật nhất dạ, trì Sa Di giới. Nhược nhất nhật nhất dạ, trì Cụ Túc Giới, oai nghi vô khuyết. Dĩ thử công đức, hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc quốc…

          Trung phẩm hạ sanh giả, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân hiếu dưỡng phụ mẫu, hành thế nhân từ. Thử nhân mạng dục chung thời, ngộ thiện tri thức, vị kỳ quảng thuyết A Di Đà Phật quốc độ lạc sự, diệc thuyết Pháp Tạng tỳ-kheo tứ thập bát đại nguyện. Văn thử sự dĩ, tầm tức mạng chung. Thí như tráng sĩ khuất thân tý khoảnh, tức sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới…

          Hạ phẩm thượng sanh giả, hoặc hữu chúng sanh, tác chúng ác nghiệp. Tuy bất phỉ báng Phương Đẳng kinh điển, như thử ngu nhân, đa tạo ác pháp, vô hữu tàm quý, mạng dục chung thời, ngộ thiện tri thức, vị thuyết Đại Thừa thập nhị bộ kinh thủ đề danh tự. Dĩ văn như thị chư kinh danh cố, trừ khước thiên kiếp cực trọng ác nghiệp. Trí giả phục giáo hiệp chưởng xoa thủ, xưng Nam-mô A Di Đà Phật. Xưng Phật danh cố, trừ ngũ thập ức kiếp sanh tử chi tội…

          Hạ phẩm trung sanh giả, hoặc hữu chúng sanh, hủy phạm ngũ giới, bát giới, cập Cụ Túc Giới. Như thử ngu nhân, thâu Tăng-kỳ vật, đạo hiện tiền tăng vật, bất tịnh thuyết pháp, vô hữu tàm quý, dĩ chư ác nghiệp nhi tự trang nghiêm. Như thử tội nhân, dĩ ác nghiệp cố, ưng đọa địa ngục. Mạng dục chung thời, địa ngục chúng hỏa nhất thời câu chí. Ngộ thiện tri thức dĩ đại từ bi, tức vị tán thuyết A Di Đà Phật thập lực oai đức, quảng tán bỉ Phật quang minh thần lực, diệc tán Giới, Định, Huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Thử nhân văn dĩ, trừ bát thập ức kiếp sanh tử chi tội. Địa ngục mãnh hỏa, hóa vi thanh lương phong, xuy chư thiên hoa. Hoa thượng giai hữu hóa Phật, Bồ Tát nghênh tiếp thử nhân…

          Hạ phẩm hạ sanh giả, hoặc hữu chúng sanh, tác bất thiện nghiệp, Ngũ Nghịch, Thập Ác, cụ chư bất thiện, như thử ngu nhân, dĩ ác nghiệp cố, ưng đọa ác đạo, kinh lịch đa kiếp, thọ khổ vô cùng. Như thử ngu nhân, lâm mạng chung thời, ngộ thiện tri thức, chủng chủng an ủy, vị thuyết diệu pháp, giáo linh niệm Phật. Bỉ nhân khổ bức, bất hoàng niệm Phật. Thiện hữu cáo ngôn: “Nhữ nhược bất năng niệm bỉ Phật giả, ưng xưng Vô Lượng Thọ Phật. Như thị chí tâm, linh thanh bất tuyệt”. Cụ túc thập niệm, xưng nam-mô A Di Đà Phật. Xưng Phật danh cố, ư niệm niệm trung, trừ bát thập ức kiếp sanh tử chi tội. Mạng chung chi thời, kiến kim liên hoa, do như nhật luân, trụ kỳ nhân tiền, như nhất niệm khoảnh, tức đắc vãng sanh (CBETA, T12, no.365).

          欲生彼國者。當修三福。一者孝養父母。奉事師長。慈心不殺。修十善業。二者受持三皈。具足眾戒。不犯威儀。三者發菩提心。深信因果。讀誦大乘。勸進行者。如此三事。名為凈業。佛告韋提希。汝今知不。此三種業。乃是過去未來現在三世諸佛凈業正因。

            凡作想者。一切眾生。自非生盲。有目之徒。皆見日沒。當起想念。正坐西向。諦觀於日。欲沒之處。令心堅住。專想不移。見日欲沒。狀如懸鼓。既見日已。閉目開目。皆令明了。是為日想。名曰初觀。次作水想。見水澄清。亦令明了。無分散意。既見水已。當起冰想。見冰映徹。作琉璃想。此想成已。見琉璃地。內外映徹。下有金剛七寶金幢。擎琉璃地。其幢八方。八楞具足。一一方面。百寶所成。一一寶珠。有千光明。一一光明。八萬四千色。映琉璃地。如億千日。不可具見。琉璃地上。以黃金繩。雜廁間錯。以七寶界。分齊分明。一一寶中。有五百色光。其光如花。又似星月。懸處虛空。成光明台。樓閣千萬。百寶合成。於台兩邊。各有百億花幢。無量樂器。以為莊嚴。八種清風。從光明出。鼓此樂器。演說苦空無常無我之音。是為水想名第二觀。此想成時。一一觀之。極令了了。閉目開目。不令散失。唯除食時。恆憶此事。如此想者。名為粗見極樂國地。若得三昧。見彼國地。了了分明。不可具說。是為地想。名第三觀。

            …地想成已。次觀寶樹。觀寶樹者。一一觀之。作七重行樹想。一一樹高八千由旬。其諸寶樹。七寶花葉。無不具足。一一華葉。作異寶色。琉璃色中。出金色光。玻瓈色中。出紅色光。碼瑙色中。出硨磲光。硨磲色中。出綠真珠光。珊瑚琥珀。一切眾寶。以為映飾。妙真珠網。彌覆樹上。一一樹上。有七重網。一一網間。有五百億妙華宮殿。如梵天宮。諸天童子。自然在中。一一童子。五百億釋迦毗楞伽摩尼以為瓔珞。其摩尼光。照百由旬。猶如和合百億日月。不可具名。眾寶間錯。色中上者。此諸寶樹。行行相當。葉葉相次。於眾葉間。生諸妙華。華上自然有七寶果。一一樹葉。縱廣正等。二十五由旬。其葉千色。有百種畫。如天瓔珞。有眾妙華。作閻浮檀金色。如旋火輪。宛轉葉間。涌生諸果。如帝釋瓶。有大光明。化成幢幡。無量寶蓋。是寶蓋中。映現三千大千世界一切佛事。十方佛國。亦於中現。見此樹已。亦當次第一一觀之。觀見樹莖。枝葉華果。皆令分明。是為樹想。名第四觀。

            次當想水。欲想水者。極樂國土。有八池水。一一池水。七寶所成。其寶柔軟。從如意珠王生。分為十四支。一一支作七寶妙色。黃金為渠。渠下皆以雜色金剛。以為底沙。一一水中。有六十億七寶蓮花。一一蓮華。團圓正等。十二由旬。其摩尼水。流注華間。尋樹上下。其聲微妙。演說苦空無常無我諸波羅蜜。復有讚歎諸佛相好者。從如意珠王。湧出金色微妙光明。其光化為百寶色鳥。和鳴哀雅。常贊念佛念法念僧。是為八功德水想。名第五觀。

            …眾寶國土。一一界上。有五百億寶樓閣。其樓閣中。無量諸天。作天伎樂。又有樂器。懸處虛空。如天寶幢。不鼓自鳴。此眾音中。皆說念佛念法念比丘僧。此想成已。名為粗見極樂世界寶樹寶地寶池。是為總觀想。名第六觀。

            …欲觀彼佛者。當起想念。於七寶地上。作蓮華想。令其蓮華。一一葉上。作百寶色。有八萬四千脈。猶如天畫。脈有八萬四千光。了了分明。皆令得見。華葉小者。縱橫二百五十由旬。如是蓮華。具有八萬四千葉。一一葉間。有百億摩尼珠。以為映飾。一一摩尼珠。放千光明。其光如蓋。七寶合成。遍覆地上。釋迦毗楞伽寶。以為其台。此蓮華台。八萬金剛甄叔迦寶。梵摩尼寶。妙真珠網。以為校飾。於其台上。自然而有四柱寶幢。一一寶幢。如百千萬億須彌山。幢上寶幔。如夜摩天宮。復有五百億微妙寶珠。以為映飾。一一寶珠。有八萬四千光。一一光作八萬四千異種金色。一一金色遍其寶土。處處變化。各作異相。或為金剛台。或作真珠網。或作雜華雲。於十方面。隨意變現。施作佛事。是為華座想。名第七觀。

            …想彼佛者。先當想像。閉目開目。見一寶像。如閻浮檀金色。坐彼華上。見像坐已。心眼得開。了了分明。見極樂國。七寶莊嚴。寶地寶池。寶樹行列。諸天寶幔。彌覆其上。眾寶羅網。滿虛空中。見如此事。極令明了。如觀掌中。見此事已。復當更作一大蓮華。在佛左邊。如前蓮華等無有異。復作一大蓮華。在佛右邊。想一觀世音菩薩像。坐左華座。亦作金色。如前無異。想一大勢至菩薩像。坐右華座。此想成時。佛菩薩像。皆放光明。其光金色。照諸寶樹。一一樹下。亦有三蓮華。諸蓮華上。各有一佛二菩薩像。遍滿彼國。此想成時。行者當聞水流光明。及諸寶樹鳧雁鴛鴦。皆說妙法。出定入定。恆聞妙法。行者所聞。出定之時。憶持不舍。令與修多羅合。若不合者名為妄想。若與合者。名為粗想見極樂世界。是為想像。名第八觀。

            …無量壽佛。身如百千億夜摩天閻浮檀金色。佛身高六十萬那由他恆河沙由旬。眉間白毫。右旋宛轉。如五須彌山。佛眼如四大海水。青白分明。身諸毛孔。演出光明。如須彌山。彼佛圓光。如百億三千大千世界。於圓光中。有百萬億那由恆河沙化佛。一一化佛。亦有眾多無數化菩薩。以為侍者。無量壽佛有八萬四千相。一一相中各有八萬四千隨形好。一一好中各有八萬四千光明。一一光明遍照十方世界念佛眾生。攝取不舍。其光相好。及與化佛。不可具說。但當憶想。令心眼見。見此事者。即見十方一切諸佛。以見諸佛故。名念佛三昧。作是觀者。名觀一切佛身。

            …觀無量壽佛者。從一相好入。但觀眉間白毫。極令明了見眉間白毫相者。八萬四千相好。自然當現。見無量壽佛者。即見十方無量諸佛。得見無量諸佛故。諸佛現前授記。是為遍觀一切色身想。名第九觀。

            …見無量壽佛。了了分明已。次亦應觀觀世音菩薩。此菩薩身長八十萬億那由他由旬。身紫金色。頂有肉髻。項有圓光。面各百千由旬。其圓光中。有五百化佛。如釋迦牟尼。一一化佛。有五百化菩薩。無量諸天。以為侍者。舉身光中。五道眾生。一切身相。皆於中現。頂上毗楞伽摩尼寶。以為天冠。其天冠中。有一立化佛。高二十五由旬。觀世音菩薩。面如閻浮檀金色。眉間毫相。備七寶色。流出八萬四千種光明。一一光明。有無量無數百千化佛。一一化佛。無數化菩薩。以為侍者。變現自在。滿十方界。譬如紅蓮華色。有八十億微妙光明。以為瓔珞。其瓔珞中。普現一切諸莊嚴事。手掌作五百億雜蓮華色。手十指端。一一指端。有八萬四千畫。猶如印文。一一畫有八萬四千色。一一色有八萬四千光。其光柔軟。普照一切。以此寶手。接引眾生。舉足時。足下有千輻輪相。自然化成五百億光明台。下足時。有金剛摩尼華。布散一切。莫不彌滿。其餘身相。眾好具足。如佛無異。唯頂上肉髻。及無見頂相。不及世尊。是為觀觀世音菩薩真實色身想。名第十觀。

            …次觀大勢至菩薩。此菩薩身量大小。亦如觀世音。圓光面各百二十五由旬。照二百五十由旬。舉身光明。照十方國。作紫金色。有緣眾生。皆悉得見。但見此菩薩一毛孔光。即見十方無量諸佛凈妙光明。是故號此菩薩名無邊光。以智慧光。普照一切。令離三塗。得無上力。是故號此菩薩名大勢至。此菩薩天冠。有五百寶華。一一寶華。有五百寶台。一一台中。十方諸佛凈妙國土廣長之相。皆於中現。頂上肉髻。如缽頭摩華。於肉髻上。有一寶瓶。盛諸光明。普現佛事。余諸身相。如觀世音。等無有異。此菩薩行時。十方世界。一切震動。當地動處。有五百億寶華。一一寶華莊嚴高顯。如極樂世界。此菩薩坐時。七寶國土。一時搖動。從下方金光佛剎。乃至上方光明王佛剎。於此中間。無量塵數分身無量壽佛。分身觀世音大勢至。皆悉雲集。極樂國土。畟塞空中。坐蓮華座。演說妙法。度苦眾生。作此觀者。名為觀見大勢至菩薩。是為觀大勢至色身相。觀此菩薩者。名第十一觀。

            …見此事時。當起自心。生於西方極樂世界。於蓮華中。結跏趺坐。作蓮華合想。作蓮華開想。蓮華開時。有五百色光來照身想。眼目開想。見佛菩薩。滿虛空中。水鳥樹林。及與諸佛。所出音聲。皆演妙法。與十二部經合。出定之時。憶持不失。見此事已。名見無量壽佛極樂世界。是為普觀想。名第十二觀。

            …若欲至心生於西方者。先當觀於一丈六像。在池水上。如先所說無量壽佛。身量無邊。非是凡夫心力所及。然彼如來宿願力故。有憶想者。必得成就。但想佛像。得無量福。況復觀佛具足身相。阿彌陀佛。神通如意。於十方國。變現自在。或現大身。滿虛空中。或現小身。丈六八尺。所現之形。皆真金色。圓光化佛。及寶蓮華。如上所說。觀世音菩薩。及大勢至。於一切處身同。眾生但觀首相。知是觀世音。知是大勢至。此二菩薩助阿彌陀佛普化一切。是為雜想觀。名第十三觀。

            上品上生者。若有眾生。願生彼國者。發三種心。即便往生。何等為三。一者至誠心。二者深心。三者迴向發願心。具三心者。必生彼國。復有三種眾生。當得往生。何等為三。一者慈心不殺。具諸戒行。二者讀誦大乘方等經典。三者修行六念。迴向發願。願生彼國。具此功德。一日乃至七日。即得往生。

            …上品中生者。不必受持讀誦方等經典。善解義趣。於第一義。心不驚動。深信因果。不謗大乘。以此功德。迴向願求。生極樂國。

            …上品下生者。亦信因果。不謗大乘。但發無上道心。以此功德。迴向願求。生極樂國。

            …中品上生者。若有眾生。受持五戒。持八戒齋。修行諸戒。不造五逆。無眾過患。以此善根。迴向願求。生於西方極樂世界。

            …中品中生者。若有眾生。若一日一夜。持八戒齋。若一日一夜。持沙彌戒。若一日一夜。持具足戒。威儀無缺。以此功德。迴向願求生極樂國。

            …中品下生者。若有善男子善女人。孝養父母。行世仁慈。此人命欲終時。遇善知識。為其廣說阿彌陀佛國土樂事。亦說法藏比丘四十八大願。聞此事已。尋即命終。譬如壯士屈伸臂頃。即生西方極樂世界。

            …下品上生者。或有眾生。作眾惡業。雖不誹謗方等經典。如此愚人。多造惡法。無有慚愧。命欲終時。遇善知識。為說大乘十二部經首題名字。以聞如是諸經名故。除卻千劫極重惡業。智者復教合掌叉手。稱南無阿彌陀佛。稱佛名故。除五十億劫生死之罪。

            …下品中生者。或有眾生。毀犯五戒。八戒及具足戒。如此愚人。偷僧祇物。盜現前僧物。不凈說法。無有慚愧。以諸惡業。而自莊嚴。如此罪人。以惡業故。應墮地獄。命欲終時。地獄眾火。一時俱至。遇善知識以大慈悲。即為贊說阿彌陀佛十力威德。廣贊彼佛光明神力。亦贊戒定慧解脫解脫知見。此人聞已。除八十億劫生死之罪。地獄猛火。化為清涼風。吹諸天華。華上皆有化佛菩薩迎接此人。

            …下品下生者。或有眾生。作不善業。五逆十惡。具諸不善。如此愚人。以惡業故。應墮惡道。經歷多劫。受苦無窮。如此愚人。臨命終時。遇善知識。種種安慰。為說妙法。教令念佛。彼人苦逼。不遑念佛。善友告言。汝若不能念彼佛者。應稱無量壽佛。如是至心。令聲不絕。具足十念。稱南無阿彌陀佛。稱佛名故。於念念中。除八十億劫生死之罪。命終之時。見金蓮華。猶如日輪。住其人前。如一念頃。即得往生。

          (Kẻ muốn sanh về cõi ấy, hãy nên tu ba phước. Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp. Hai là thọ trì Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng trái phạm oai nghi. Ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả. Ba chuyện như thế được gọi là Tịnh nghiệp. Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy: “Bà có biết hay chăng? Ba loại nghiệp ấy chính là tịnh nghiệp chánh nhân của quá khứ, vị lai, hiện tại ba đời chư Phật”.  

          Phàm là kẻ quán tưởng, hết thảy chúng sanh, nếu chẳng phải là kẻ mù từ thuở lọt lòng, là những người có mắt, đều thấy mặt trời lặn. Hãy nên dấy lên sự tưởng niệm, ngồi hướng thẳng về phương Tây, quán kỹ mặt trời ở chỗ sắp lặn, giữ cho cái tâm trụ vững, chuyên tưởng, chẳng dời. Thấy mặt trời sắp lặn, hình dạng như cái trống treo. Đã thấy mặt trời rồi, nhắm mắt, mở mắt, đều giữ sao cho rõ ràng. Đó là phép Quán mặt trời, gọi là phép Quán thứ nhất.

          Kế đó là tưởng nước, thấy nước trong lặng, cũng quán sao cho rõ rệt, ý chẳng phân tán. Đã thấy nước rồi, hãy nên tưởng là băng. Thấy băng chiếu sáng ngời, trong suốt, tưởng là lưu ly. Phép tưởng này đã thành rồi, thấy đất lưu ly, trong ngoài sáng ngời trong suốt. Phía dưới có tràng vàng bằng chất kim cang bảy báu, nâng đỡ đất lưu ly. Tràng ấy có tám mặt, tám cạnh trọn đủ. Mỗi một mặt đều do trăm thứ báu hợp thành. Mỗi viên bảo châu, có một ngàn quang minh. Mỗi một quang minh, tám vạn bốn ngàn sắc, chiếu sáng đất lưu ly như ức ngàn mặt trời, chẳng thể thấy trọn. Trên đất lưu ly, dùng dây bằng vàng ròng, xen kẽ, hòa lẫn, dùng bảy báu làm ranh giới, chia thành từng khu vực phân minh. Trong mỗi thứ báu có quang minh năm trăm màu. Quang minh ấy như hoa, lại như ngôi sao, mặt trăng, treo lơ lửng trên hư không, thành đài quang minh. Lầu, gác ngàn vạn, do trăm thứ báu hợp thành. Ở hai bên đài, mỗi bên đều có trăm ức tràng hoa. Vô lượng nhạc khí dùng để trang nghiêm. Tám loại gió mát từ trong quang minh lùa ra, lay động các nhạc khí, diễn nói các âm thanh Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã. Đấy là Thủy Tưởng, gọi là phép Quán thứ hai. Khi phép tưởng này đã thành, quán mỗi thứ sao cho hết sức rành rẽ. Nhắm mắt, mở mắt, đừng để cho tan mất. Chỉ trừ khi ăn, luôn nhớ chuyện này. Tưởng như thế, gọi là thấy cõi đất Cực Lạc về phần thô. Nếu đắc tam-muội, thấy cõi đất của nước ấy rành rẽ, phân minh, chẳng thể nói trọn. Đấy là Địa Tưởng, gọi là phép Quán thứ ba.

          …Tưởng đất đã thành rồi, kế đến quán cây báu. Quán cây báu thì mỗi mỗi đều quán. Tưởng bảy lớp hàng cây, mỗi cây cao tám ngàn do-tuần. Các cây báu ấy, hoa lá bằng bảy báu, không gì chẳng trọn đủ. Mỗi một hoa lá đều có màu của các chất báu khác lạ. Trong màu lưu ly, tỏa quang minh kim sắc. Trong màu pha lê, tỏa quang minh màu đỏ. Trong màu mã não, tỏa quang minh màu xa cừ. Trong màu xa cừ, tỏa quang minh màu lục chân châu. San hô, hổ phách, hết thảy các thứ báu chói lọi để trang hoàng. Lưới chân châu mầu nhiệm che phủ trên cây. Trên mỗi cây, có bảy tầng lưới. Trong khoảng giữa mỗi tầng lưới, có năm trăm ức cung điện bằng hoa mầu nhiệm, như cung điện của Phạm Thiên. Các đồng tử cõi trời, tự nhiên xuất hiện trong ấy. Mỗi đồng tử có năm trăm ức Thích Ca Tỳ Lăng Già ma-ni để làm chuỗi ngọc. Ánh sáng từ các viên ma-ni ấy chiếu xa một trăm do-tuần, giống như hòa hợp trăm ức mặt trời, mặt trăng, chẳng thể kể trọn! Các báu xen kẽ, màu sắc đẹp đẽ nhất. Các cây báu ấy từng hàng ngang nhau, các lá đối xứng. Khoảng giữa các lá, sanh ra các đóa hoa đẹp đẽ. Trên hoa, tự nhiên có quả bằng bảy báu. Mỗi một lá cây kích thước mỗi bề tương xứng hai mươi lăm do-tuần. Lá cây ngàn màu, có trăm loại gân lá như chuỗi ngọc cõi trời. Có các thứ hoa đẹp đẽ, màu như chất vàng Diêm Phù Đàn, như vòng lửa xoay, uyển chuyển giữa các lá, các loại quả trồi ra [có hình dạng] như chiếc bình của Đế Thích. Có đại quang minh hóa thành tràng phan. Vô lượng lọng báu, trong các lọng báu ấy, hiện bóng hết thảy Phật sự trong tam thiên đại thiên thế giới. Mười phương cõi Phật cũng hiện trong ấy. Đã thấy những cây ấy rồi, cũng nên theo thứ tự quán từng điều một. Quán thấy thân cây, cành, lá, hoa, quả, thảy đều phân minh. Đấy là Thụ Tưởng, là phép Quán thứ sáu.

          Kế đó, hãy nên tưởng nước. Muốn tưởng nước thì cõi nước Cực Lạc có ao nước tám công đức. Mỗi ao nước đều do bảy báu hợp thành. Chất báu ấy mềm mại, sanh từ Như Ý Châu Vương, chia thành mười bốn nhánh. Mỗi nhánh đều có màu bảy báu đẹp đẽ, vàng ròng làm lạch dẫn. Dưới đáy lạch, đều dùng chất kim cang nhiều màu để làm cát trải đáy. Trong mỗi dòng nước, có sáu mươi ức hoa sen bằng bảy báu. Mỗi một hoa sen, tròn trặn vừa đúng mười hai do-tuần. Nước ma-ni chảy rót trong các hoa, luồn theo thân cây chảy lên, chảy xuống. Tiếng nước chảy vi diệu, diễn nói Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, các Ba La Mật. Lại có tiếng tán thán tướng hảo của chư Phật. Từ Như Ý Châu Vương, túa ra quang minh sắc vàng ròng vi diệu. Quang minh ấy hóa thành các loài chim có màu sắc của trăm thứ báu, hòa tiếng hót du dương, thanh nhã, thường ca ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đấy là phép tưởng nước tám công đức, gọi là phép Quán thứ năm.

          …Cõi nước bằng các thứ báu, trong mỗi khu vực, có năm trăm ức lầu gác báu. Trong mỗi lầu, gác, vô lượng chư thiên tấu các âm nhạc trời. Lại có những món nhạc khí treo lơ lửng trên hư không, như tràng báu cõi trời, không có ai tấu mà tự phát ra tiếng. Trong các âm thanh ấy, đều nói niệm Phật, niệm Pháp, niệm tỳ-kheo Tăng. Phép tưởng này đã thành, gọi là thấy thế giới Cực Lạc về phần thô, [tức là] thấy cây báu, đất báu, ao báu. Đấy là Tổng Quán Tưởng, gọi là phép Quán thứ sáu.

          …Muốn quán đức Phật ấy, hãy nên dấy lên sự tưởng niệm. Trên đất bảy báu, tưởng có hoa sen, tưởng sao cho hoa sen ấy, trên mỗi cánh hoa đều có màu của trăm thứ báu, có tám vạn bốn ngàn đường gân ví như nét vẽ cõi trời. Mỗi đường gân có tám vạn bốn ngàn quang minh, rành rẽ, phân minh, thảy đều trông thấy. Cánh hoa nhỏ thì mỗi bề là hai trăm năm mươi do-tuần. Hoa sen như thế có đủ tám vạn bốn ngàn cánh. Giữa mỗi cánh, có trăm ức ma-ni châu để chiếu ngời trang điểm. Mỗi viên ma-ni châu, tỏa ra một ngàn tia quang minh. Quang minh ấy như cái lọng, do bảy báu hợp thành, che khắp mặt đất. Báu Thích Ca Tỳ Lăng Già dùng làm đài hoa. Đài hoa sen ấy được trang hoàng bằng tám vạn báu Kim Cang Chân Thúc Ca, báu Phạm ma-ni và lưới diệu chân châu. Trên cái đài ấy, tự nhiên có bốn trụ tràng báu. Mỗi một tràng báu như trăm ngàn vạn ức núi Tu Di. Trên tràng có màn báu như cung trời Dạ Ma. Lại có năm trăm ức bảo châu vi diệu chói ngời để trang hoàng. Mỗi viên bảo châu có tám vạn bốn ngàn quang minh. Tưởng mỗi quang minh hiện ra tám vạn bốn ngàn sắc vàng khác loại, mỗi sắc vàng trọn khắp trên các báu ấy. Biến hóa khắp nơi, mỗi nơi đều là tướng lạ, hoặc là đài kim cang, hoặc là lưới chân châu, hoặc là mây các loại hoa. Trong mười phương, tùy ý biến hiện, thực hiện Phật sự. Đấy là Hoa Tòa Tưởng, gọi là phép Quán thứ bảy.

          …Tưởng đức Phật ấy thì trước hết hãy nên tưởng một hình tượng, nhắm mắt, mở mắt, đều thấy một tượng báu có màu như vàng Diêm Phù Đàn, ngồi trên hoa ấy. Đã thấy tượng ngồi rồi, tâm nhãn được mở mang, rành rẽ, phân minh, thấy cõi Cực Lạc trang nghiêm bằng bảy báu. Đất báu, ao báu, cây báu bày hàng, các màn báu cõi trời che phủ bên trên, các lưới mành báu đầy ắp hư không. Thấy những sự như thế rồi sao cho hết sức rành rẽ như nhìn vào bàn tay. Đã thấy những chuyện ấy rồi, lại nên tưởng một đóa hoa sen to ở bên trái đức Phật giống như hoa sen trước chẳng khác. Lại tưởng một hoa sen to ở bên phải đức Phật. Tưởng một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi trên hoa tòa bên trái. Cũng tưởng hình tượng ấy sắc vàng như trên, chẳng khác. Tưởng một tượng Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi trên hoa tòa bên phải. Khi phép tưởng ấy đã thành, tượng Phật và Bồ Tát đều phóng quang minh. Quang minh ấy kim sắc, chiếu các cây báu. Dưới mỗi một cây, cũng có ba hoa sen. Trên các hoa sen, đều có tượng một vị Phật và hai vị Bồ Tát trọn khắp nước ấy. Khi phép tưởng này đã thành, hành giả sẽ nghe dòng nước, quang minh, và các cây báu, le, nhạn, uyên ương đều nói diệu pháp. Xuất Định, nhập Định, luôn nghe diệu pháp. Đối với những điều hành giả đã được nghe, khi xuất Định, bèn ghi nhớ chẳng bỏ, sao cho phải phù hợp với Khế Kinh. Nếu chẳng phù hợp thì gọi là vọng tưởng. Nếu phù hợp thì gọi là tưởng thế giới Cực Lạc về phần thô. Đấy là Tưởng Tượng, gọi là phép Quán thứ tám.

          …Vô Lượng Thọ Phật thân như sắc vàng Diêm Phù Đàn của trăm ngàn ức Dạ Ma Thiên. Thân Phật cao sáu mươi vạn na-do-tha Hằng hà sa do-tuần. Bạch hào giữa mày, uyển chuyển xoay về bên phải, [to] như năm quả núi Tu Di. Mắt Phật như nước bốn biển cả, xanh trắng phân minh. Từ các lỗ chân lông nơi thân, tỏa ra quang minh như núi Tu Di. Viên quang của đức Phật ấy như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới. Trong viên quang có trăm vạn ức na-do-tha Hằng hà sa hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật cũng có rất nhiều vô số hóa Bồ Tát làm thị giả. Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng, trong mỗi một tướng đều có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi một hảo, đều có tám vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi một quang minh chiếu trọn khắp các chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ. Quang minh, tướng hảo, cùng với hóa Phật chẳng thể nói trọn, chỉ nên ức tưởng khiến cho tâm nhãn trông thấy. Trông thấy sự ấy, liền thấy mười phương hết thảy chư Phật. Do thấy chư Phật, nên gọi là Niệm Phật tam-muội. Quán tưởng như vậy gọi là Quán Thân Của Hết Thảy Các Vị Phật.

          ….Quán Vô Lượng Thọ Phật là từ một tướng hảo mà nhập quán, chỉ quán bạch hào giữa hai mày sao cho hết sức rõ rệt. Thấy tướng bạch hào giữa hai mày thì tám vạn bốn ngàn tướng hảo tự nhiên sẽ hiện tiền. Thấy Vô Lượng Thọ Phật chính là thấy mười phương vô lượng chư Phật. Do được thấy vô lượng chư Phật, chư Phật hiện tiền thọ ký. Đấy là quán tưởng trọn khắp hết thảy các sắc thân, gọi là phép Quán thứ chín.

          …Đã thấy Vô Lượng Thọ Phật rành rẽ, phân minh rồi, kế đến, cũng nên quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Thân vị Bồ Tát này cao tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần, thân có màu vàng tía, đỉnh đầu có nhục kế. Cổ có viên quang, mỗi phía rộng đến trăm ngàn do-tuần. Trong viên quang ấy, có năm trăm hóa Phật như Thích Ca Mâu Ni. Mỗi vị hóa Phật có năm trăm vị hóa Bồ Tát, vô lượng chư thiên làm thị giả. Trong quang minh nơi toàn thân, hết thảy các thân tướng của chúng sanh trong năm đường đều hiện trong ấy. Trên đỉnh đầu, dùng chất báu Tỳ Lăng Già Ma Ni để làm mão trời. Trong mão trời ấy, có một vị hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do-tuần. Quán Thế Âm Bồ Tát sắc mặt như vàng Diêm Phù Đàn. Tướng bạch hào giữa hai mày có màu bảy báu, tỏa ra tám vạn bốn ngàn loại quang minh. Mỗi một quang minh có vô lượng vô số trăm ngàn hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả, biến hiện tự tại, đầy ắp các cõi trong mười phương. [Cánh tay của Bồ Tát] ví như màu hoa sen đỏ, có tám mươi ức quang minh vi diệu làm chuỗi anh lạc. Trong các chuỗi anh lạc, hiện khắp hết thảy các sự trang nghiêm. Tưởng bàn tay Ngài có màu của năm trăm ức hoa sen nhiều màu. Mười đầu ngón tay, mỗi đầu ngón tay có tám vạn bốn ngàn đường vân, ví như nét khắc trên cái ấn. Trong mỗi một đường vân, có tám vạn bốn ngàn sắc. Mỗi sắc có tám vạn bốn ngàn quang minh. Quang minh ấy mềm mại, chiếu trọn khắp hết thảy. Ngài dùng tay báu ấy để tiếp dẫn chúng sanh. Khi Ngài giở chân, dưới bàn chân có tướngbánh xe ngàn căm, tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài quang minh. Khi Ngài đặt chân xuống, có hoa kim cang ma-ni, tán rải hết thảy, không đâu chẳng đầy ắp. Những thân tướng khác, các thứ hảo trọn đủ, chẳng khác Phật, chỉ có nhục kế trên đảnh và tướng Vô Kiến Đảnh chẳng bằng đức Thế Tôn. Đấy là phép tưởng sắc thân chân thật của Quán Thế Âm Bồ Tát, gọi là phép Quán thứ mười.

          …Kế đến quán Đại Thế Chí Bồ Tát. Thân lượng của vị Bồ Tát này lớn nhỏ cũng như Quán Thế Âm. Viên quang mỗi phía đều rộng một trăm hai mươi lăm do-tuần, chiếu xa hai trăm năm mươi do-tuần. Quang minh toàn thân chiếu thấu các cõi nước trong mười phương, đều là màu vàng tía. Chúng sanh hữu duyên thảy đều trông thấy. Chỉ thấy quang minh từ một lỗ chân lông của vị Bồ Tát này, liền thấy quang minh thanh tịnh, vi diệu của mười phương vô lượng chư Phật. Vì thế, vị Bồ Tát này có hiệu là Vô Biên Quang. Ngài dùng quang minh trí huệ chiếu khắp hết thảy, khiến cho [chúng sanh] lìa khỏi tam đồ, được vô thượng lực. Vì thế, vị Bồ Tát này có tên là Đại Thế Chí. Trong mão trời của vị Bồ Tát này, có năm trăm hoa báu. Mỗi hoa báu có năm trăm đài báu. Trên mỗi đài, tướng rộng lớn của các cõi nước thanh tịnh, nhiệm mầu của mười phương chư Phật đều hiện trong ấy. Nhục kế trên đỉnh đầu như hoa bát-đầu-ma (hoa sen hồng). Trên nhục kế, có một cái bình báu, chứa đầy các quang minh, hiển hiện trọn khắp các Phật sự. Các thân tướng khác giống hệt như Quán Thế Âm, chẳng khác biệt gì. Khi vị Bồ Tát này đi, mười phương thế giới hết thảy chấn động. Ở ngay những chỗ bị chấn động, có năm trăm ức hoa báu. Mỗi một hoa báu trang nghiêm, cao rạng như thế giới Cực Lạc. Khi vị Bồ Tát này ngồi, cõi nước bảy báu cùng lúc rúng động. Từ cõi Phật Kim Quang ở phương dưới cho đến cõi Phật Quang Minh Vương ở phương trên, trong khoảng giữa ấy, vô lượng phân thân của Vô Lượng Thọ Phật, phân thân Quán Thế Âm và Phật thân Đại Thế Chí số lượng nhiều như vi trần thảy đều như mây nhóm họp trong cõi nước Cực Lạc, đầy nghẹt hư không. Các vị ngồi trên tòa hoa sen, diễn nói diệu pháp, độ chúng sanh khổ não. Tu phép Quán này, gọi là quán thấy Đại Thế Chí Bồ Tát. Đây là quán tưởng sắc thân của ngài Đại Thế Chí. Quán vị Bồ Tát này thì gọi là phép Quán thứ mười một.

          …Khi thấy chuyện này, hãy nên dấy lòng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới: Tưởng ngồi xếp bằng ở trong hoa sen, tưởng hoa sen khép lại, tưởng hoa sen nở ra. Khi hoa sen nở, tưởng có năm trăm tia sáng nhiều màu chiếu vào thân. Tưởng khi mở mắt, sẽ thấy Phật, Bồ Tát đầy ắp hư không. Những âm thanh do nước, chim, cây cối, cùng với [âm thanh do] chư Phật phát ra, đều diễn diệu pháp tương ứng với mười hai bộ kinh. Khi xuất Định, ghi nhớ chẳng quên. Đã thấy chuyện ấy rồi, thì gọi là thấy thế giới Cực Lạc của Vô Lượng Thọ Phật. Đấy là phép tưởng Phổ Quán, gọi là phép Quán thứ mười hai.

          …Nếu ai muốn chí tâm sanh về Tây Phương, trước hết, hãy nên quán trên mặt nước trong ao, có một tượng cao một trượng sáu thước. Như đã nói trong phần trên, thân lượng Vô Lượng Thọ Phật vô biên, tâm lực của phàm phu chẳng thể tưởng nổi; nhưng do sức túc nguyện của đức Như Lai ấy, hễ có ai ức tưởng, ắt sẽ được thành tựu. Chỉ tưởng hình tượng Phật ấy, sẽ được vô lượng phước. Huống hồ lại còn quán thân tướng trọn đủ của Phật! A Di Đà Phật thần thông như ý, trong các cõi nước ở mười phương, Ngài biến hiện tự tại. Hoặc hiện thân lớn đầy chật hư không, hoặc hiện thân nhỏ, một trượng sáu thước, hoặc tám thước. Những thân đã hiện đều là màu vàng ròng. Hóa Phật trong viên quang và hoa sen báu đều như trong phần trên đã nói. Hết thảy mọi nơi trên thân của Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát giống như nhau. Chúng sanh chỉ quán tướng đầu, sẽ biết là Quán Thế Âm hay biết là Đại Thế Chí. Hai vị Bồ Tát ấy giúp A Di Đà Phật hóa độ trọn khắp hết thảy. Đấy là Tạp Tưởng Quán, gọi là phép Quán thứ mười ba.    

          Thượng phẩm thượng sanh là nếu có chúng sanh, nguyện sanh về cõi ấy, phát ra ba thứ tâm, liền được vãng sanh. Những gì là ba? Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Người trọn đủ ba tâm, ắt sanh về cõi ấy. Lại có ba loại chúng sanh sẽ được vãng sanh, những gì là ba? Một là từ tâm chẳng giết, đầy đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng. Ba là tu hành sáu niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sanh về cõi ấy. Có đủ các công đức ấy, từ một ngày cho đến bảy ngày, sẽ liền được vãng sanh.

          …Thượng phẩm trung sanh là chẳng cần thọ trì, đọc tụng kinh điển Phương Đẳng, khéo hiểu nghĩa thú. Đối với Đệ Nhất Nghĩa, tâm chẳng kinh động, tin sâu nhân quả, chẳng phỉ báng Đại Thừa, đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh về cõi Cực Lạc.

          …Thượng phẩm hạ sanh là cũng tin nhân quả, chẳng phỉ báng Đại Thừa, chỉ phát vô thượng đạo tâm. Dùng công đức ấy, hồi hướng nguyện cầu, sanh về cõi Cực Lạc.

          …Trung phẩm thượng sanh là nếu có chúng sanh thọ trì Ngũ Giới, trì Bát Quan Trai Giới, tu hành các giới, chẳng tạo Ngũ Nghịch, chẳng có các lầm lỗi. Đem thiện căn ấy, hồi hướng nguyện cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.

          …Trung phẩm trung sanh là nếu có chúng sanh, hoặc một ngày, một đêm trì Bát Quan Trai Giới, hoặc một ngày, một đêm trì giới Sa Di, hoặc một ngày, một đêm trì giới Cụ Túc, chẳng thiếu oai nghi. Đem công đức ấy, hồi hướng nguyện cầu sanh về cõi Cực Lạc.

          …Trung phẩm hạ sanh là nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hiếu dưỡng cha mẹ, thực hành lòng nhân từ thế gian, người ấy khi mạng sắp chấm dứt, gặp thiện tri thức vì người ấy rộng nói những chuyện vui trong cõi nước của A Di Đà Phật, và cũng nói bốn mươi tám đại nguyện của tỳ-kheo Pháp Tạng. Người ấy nghe những chuyện đó xong, ngay lập tức mạng chung. Ví như trong khoảng tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.

          …Hạ phẩm thượng sanh là nếu có chúng sanh, tạo các ác nghiệp. Tuy chẳng phỉ báng kinh điển Phương Đẳng, kẻ ngu như thế tạo nhiều pháp ác, chẳng có lòng hổ thẹn, lúc mạng sắp hết, gặp thiện tri thức vì người ấy nói danh tự, tựa đề của mười hai bộ kinh Đại Thừa. Do nghe tên của các kinh như vậy, trừ được ác nghiệp cực nặng trong ngàn kiếp. Người trí lại dạy kẻ ấy chắp tay, xưng Nam-mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu, trừ khử tội lỗi trong năm mươi kiếp sanh tử.

          …Hạ phẩm trung sanh là nếu có chúng sanh hủy phạm năm giới, tám giới, và Cụ Túc Giới. Kẻ ngu như thế ăn trộm vật của Tăng-kỳ, ăn trộm vật dụng của hiện tiền tăng, thuyết pháp bất tịnh, chẳng có lòng hổ thẹn, dùng các ác nghiệp để tự trang nghiêm. Tội nhân như thế do vì ác nghiệp, đáng phải đọa địa ngục. Khi mạng sắp chết, các thứ lửa địa ngục cùng lúc ùa tới. Gặp thiện tri thức do lòng đại từ bi, liền vì kẻ ấy khen nói thập lực oai đức của A Di Đà Phật, khen ngợi rộng rãi quang minh và thần lực của đức Phật ấy, và cũng khen ngợi Giới, Định, Huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Kẻ đó nghe xong, trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Lửa dữ địa ngục hóa thành gió trong mát, thổi các hoa trời. Trên hoa đều có hóa Phật, hóa Bồ Tát đón tiếp kẻ ấy.

            …Hạ phẩm hạ sanh là nếu có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện, Ngũ Nghịch, Thập Ác, đầy đủ các điều bất thiện. Kẻ ngu như thế, do vì ác nghiệp, đáng đọa ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng. Kẻ ngu như thế, khi lâm chung, gặp thiện tri thức an ủi đủ mọi cách, vì kẻ ấy nói diệu pháp, dạy kẻ ấy niệm Phật. Kẻ ấy bị khổ não bức bách, chẳng rảnh để niệm Phật. Thiện hữu bảo rằng: “Nếu ông chẳng thể niệm đức Phật ấy, hãy nên xưng Vô Lượng Thọ Phật. Chí tâm như thế, khiến cho tiếng niệm chẳng dứt, trọn đủ mười niệm, xưng nam-mô A Di Đà Phật”. Do xưng danh hiệu Phật, trong mỗi niệm, trừ tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi mạng chung, thấy hoa sen bằng vàng như vầng mặt trời ở trước kẻ ấy, như trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh).

 

* Bạt Pha Bồ Tát Kinh

(拔陂菩薩經)

 

          Bồ Tát bạch y giả, nhược học giả, văn A Di Đà Phật sở tại quốc, thường đương niệm kỳ phương, vô hủy lậu ư giới. Ư giới ấm, mạc dụng loạn ý, tịnh tâm niệm nhất nhật nhất dạ chí thất nhật thất dạ. Như thị thất nhật thất dạ tất niệm, tiện khả kiến A Di Đà Phật (CBETA, T13, no.419, p.922, a12-16).

          菩薩白衣者。若學者。聞阿彌陀佛所在國。常當念其方。無毀漏於戒。於戒陰莫用亂意。凈心念一日一夜至七日七夜。如是七日七夜畢念。便可見阿彌陀佛。

          (Hàng Bồ Tát tại gia, hoặc là người học, nghe nói cõi nước có A Di Đà Phật đang ngự, hãy thường nên nghĩ đến chỗ ấy, chẳng hủy phạm, sai sót nơi giới. Đối với giới ấm, chẳng loạn ý, tịnh tâm niệm từ một ngày, một đêm cho đến bảy ngày, bảy đêm. Niệm xong bảy ngày, bảy đêm như thế, sẽ có thể thấy A Di Đà Phật).

 

* Chư Pháp Vô Hành Kinh

(諸法無行經)

 

          Ngã vị tằng kiến văn, từ bi nhi hành não, hỗ cộng tương sân khuể, nguyện sanh A Di Đà. Nhược nhân như hằng sa, ác khẩu gia đao trượng. Như thị giai năng nhẫn, tắc sanh thanh tịnh độ (CBETA, T15, no.650, p. 751, c15-19).

          我未曾見聞。慈悲而行惱。互共相嗔恚。願生阿彌陀。若人如恆河。惡口加刀杖。如是皆能忍。則生清凈土。

          (Ta chưa từng thấy nghe người có lòng từ bi mà làm chuyện não hại, giận hờn người khác, nguyện sanh về cõi A Di Đà. Nếu người đông như cát sông Hằng, nói lời thô ác, cùng dùng đao, gậy [làm hại] mà đều có thể nhẫn như thế, sẽ sanh về cõi thanh tịnh).

 

* Bất Không Quyến Tác Thần Biến Chân Ngôn Kinh

(不空罥索神變真言經)

 

          Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tiên thọ Bồ Tát giới, nhị bách ngũ thập giới, ngũ bách giới, ngũ giới, thập giới, bát giới, tam quy y giới, văn loa thanh giả, đương xả thân dĩ, trực vãng Tây Phương Cực Lạc quốc độ, liên hoa hóa sanh, trụ Bất Thoái Chuyển (CBETA, T20, no.1092, p.323, b21-24).

          若有善男子善女人。先受菩薩戒、二百五十戒、五百戒、五戒、十戒、八戒、三歸依戒。聞螺聲者當捨身已。直往西方極樂國土。蓮花化生。住不退轉。

          (Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân trước hết thọ Bồ Tát giới, hai trăm năm mươi giới, năm trăm giới, năm giới, mười giới, tám giới, tam quy y giới, nghe tiếng tù và, sẽ xả thân, về thẳng cõi nước Tây Phương Cực Lạc, hóa sanh trong hoa sen, trụ Bất Thoái Chuyển).

 

* Phật Thuyết A Di Đà Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni Kinh

(佛說阿彌陀鼓音聲王陀羅尼經)

 

          Nhược hữu thọ trì bỉ Phật danh hiệu, ức niệm bất vong, thập nhật, thập dạ, trừ xả tán loạn, tinh cần tu tập Niệm Phật tam-muội, tri bỉ Như Lai, thường hằng trụ ư An Lạc thế giới, ức niệm tương tục, vật linh đoạn tuyệt (CBETA, T12, no.370, p.352, b28-c2).

          若有受持彼佛名號。憶念不忘。十日十夜。除舍散亂。精勤修習念佛三昧。知彼如來。常恆住於安樂世界。憶念相續。勿令斷絕。

          (Nếu có người thọ trì danh hiệu của đức Phật ấy, nghĩ nhớ chẳng quên, mười ngày, mười đêm, trừ bỏ tán loạn, siêng năng chuyên ròng tu tập Niệm Phật tam-muội, biết đức Như Lai ấy thường luôn trụ trong thế giới An Lạc, liên tục nghĩ nhớ, đừng để đoạn tuyệt).

 

* Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh

(大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經)

 

          Đại Thế Chí Pháp Vương Tử, dữ kỳ đồng luân ngũ thập nhị Bồ Tát, tức tùng tòa khởi, đảnh lễ Phật túc, nhi bạch Phật ngôn: “Ngã ức vãng tích Hằng hà sa kiếp, hữu Phật xuất thế, danh Vô Lượng Quang. Thập nhị Như Lai tương kế nhất kiếp. Kỳ tối hậu Phật, danh Siêu Nhật Nguyệt Quang. Bỉ Phật giáo ngã Niệm Phật tam-muội. Thí như hữu nhân, nhất chuyên vi ức, nhất nhân chuyên vong. Như thị nhị nhân, nhược phùng bất phùng, hoặc kiến phi kiến, nhị nhân tương ức, nhị ức niệm thâm. Như thị nãi chí tùng sanh chí sanh, đồng ư hình ảnh, bất tương quai dị. Thập phương Như Lai, liên niệm chúng sanh, như mẫu ức tử. Nhược tử đào thệ, tuy ức hà vi. Tử nhược ức mẫu, như mẫu ức thời, mẫu tử lịch sanh, bất tương vi viễn. Nhược chúng sanh tâm, ức Phật, niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật, khứ Phật bất viễn, bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai. Như nhiễm hương nhân, thân hữu hương khí. Thử tắc danh viết Hương Quang Trang Nghiêm. Ngã bổn nhân địa, dĩ niệm Phật tâm, nhập Vô Sanh Nhẫn. Kim ư thử giới, nhiếp niệm Phật nhân, quy ư Tịnh Độ. Phật vấn viên thông, ngã vô tuyển trạch, đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, đắc tam-ma-địa, tư vi đệ nhất” (CBETA, T19, no.945, p.128, a21-b6).

          大勢至法王子。與其同倫五十二菩薩。即從座起。頂禮佛足而白佛言。我憶往昔恆河沙劫。有佛出世。名無量光。十二如來相繼一劫。其最後佛。名超日月光。彼佛教我念佛三昧。譬如有人。一專為憶。一人專忘。如是二人。若逢不逢。或見非見。二人相憶。二憶念深。如是乃至從生至生。同於形影。不相乖異。十方如來。憐念眾生。如母憶子。若子逃逝。雖憶何為。子若憶母。如母憶時。母子歷生。不相違遠。若眾生心。憶佛念佛。現前當來。必定見佛。去佛不遠。不假方便。自得心開。如染香人。身有香氣。此則名曰香光莊嚴。我本因地。以念佛心。入無生忍。今於此界。攝念佛人。歸於凈土。佛問圓通。我無選擇。都攝六根。凈念相繼。得三摩地。斯為第一。

          (Đại Thế Chí Pháp Vương Tử, cùng với năm mươi hai vị Bồ Tát đồng hàng với Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng: -Con nhớ Hằng hà sa kiếp xưa kia, có Phật xuất thế, tên là Vô Lượng Quang. Mười hai đức Như Lai nối tiếp nhau xuất thế trong một kiếp. Vị Phật cuối cùng, tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đức Phật ấy dạy con Niệm Phật tam-muội. Ví như có người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên. Hai người như thế, dẫu gặp mà như chẳng gặp, dẫu thấy mà như chẳng thấy. Hai người nhớ nhau, hai đằng nhớ nhau sâu đậm. Như thế cho đến từ đời này sang đời khác, như hình với bóng, chẳng hề sai khác. Mười phương Như Lai thương xót chúng sanh, như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ trốn, tuy mẹ nhớ mà chẳng làm sao được! Nếu con nhớ mẹ, như khi mẹ nhớ con, mẹ và con trải qua các đời chẳng chống trái, xa cách nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng nhờ vào phương tiện, tâm tự mở mang. Như người nhuốm mùi hương, thân có mùi thơm. Đó gọi là Hương Quang Trang Nghiêm. Lúc con còn tu nhân, vốn dùng cái tâm niệm Phật để nhập Vô Sanh Nhẫn. Nay trong cõi này, nhiếp thủ người niệm Phật trở về Tịnh Độ. Phật hỏi về phép Viên Thông, con chẳng chọn lựa, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc tam-ma-địa, đấy là bậc nhất).

 

* Phật Thuyết Vô Thường Kinh Phụ Lâm Chung Phương Quyết

(佛說無常經附臨終方訣)

 

          Đản linh bệnh giả, hữu hiếp trước địa, hiệp chưởng, chí tâm, diện hướng Tây Phương… vị tuyên thuyết Phật độ nhân duyên, thập lục quán đẳng, do như Tây Phương Vô Lượng Thọ quốc, nhất nhất cụ thuyết, linh bệnh giả tâm nhạo sanh Tịnh Độ. Vị thuyết pháp dĩ, phục giáo đế quán, tùy hà phương quốc, Phật thân, tướng hảo. Quán tướng hảo dĩ… Phục linh bệnh nhân xưng bỉ Phật danh, thập niệm thành tựu (CBETA, T17, no.801, p.746).

          但令病者。右脅着地,合掌至心,面向西方。…為宣說佛土因緣。十六觀等。由如西方無量壽國。一一具說。令病者心樂生凈土。為說法已,復教諦觀,隨何方國,佛身相好。觀相好已。…復令病人稱彼佛名。十念成就。

          (Chỉ nên bảo người bệnh, nằm bên hông phải, chắp tay, chí tâm, mặt hướng về phương Tây… vì người ấy tuyên nói nhân duyên của cõi Phật ấy, mười sáu phép Quán v.v… ví như cõi của Vô Lượng Thọ ở Tây Phương, mỗi mỗi đều nói đầy đủ, khiến cho người bệnh tâm ưa thích mong sanh về Tịnh Độ. Đã vì người ấy nói rồi, lại dạy quán chắc thật, tùy theo cõi nước ở phương nào mà [quán tưởng] thân Phật và tướng hảo. Đã quán tướng hảo xong… lại dạy người bệnh xưng danh hiệu đức Phật ấy, mười niệm thành tựu).

 

* Bồ Tát Thọ Trai Kinh

(菩薩受齋經)

 

          Như chư Bồ Tát lục vạn Bồ Tát pháp trai, nhật dạ nhất phần Thiền, nhất phần độc kinh, nhất phần ngọa. Thị vi Bồ Tát trai nhật pháp. Chánh nguyệt thập tứ nhật thọ, thập thất nhật giải. Tứ nguyệt bát nhật thọ, thập ngũ nhật giải. Thất nguyệt nhất nhật thọ, thập lục nhật giải. Cửu nguyệt thập tứ nhật thọ, thập lục nhật giải. Hữu trai nhật số, quy mạng Tây Phương A Di Đà Tam Da Tam Phật Đàn Cáp Lâu Hỗ Ma Ha Na Bát Bồ Tát, tam độc tiêu trừ, vãng sanh tôn tiền (CBETA, T24, no.1502, p.1116, b22-29).

          如諸菩薩六萬菩薩法齋。日夜一分禪。一分讀經。一分卧。是為菩薩齋日法。正月十四日受。十七日解。四月八日受。十五日解。七月一日受。十六日解。九月十四日受。十六日解。右齋日數。歸命西方阿彌陀三耶三佛檀廅樓互摩訶那缽菩薩。三毒消除。往生尊前。

          (Như sáu vạn Bồ Tát pháp trai của các vị Bồ Tát, [trong mỗi] ngày đêm, dùng một phần thời gian để Thiền, một phần để đọc kinh, và một phần để nghỉ ngơi. Đấy là cách [hành trì] trong một ngày trai của Bồ Tát. Thọ vào ngày Mười Bốn tháng Giêng, ngày Mười Bảy xả. Ngày mồng Tám tháng Tư thọ, ngày Rằm xả. Ngày mồng Một tháng Bảy thọ, ngày Mười Sáu xả. Ngày Mười Bốn tháng Chín thọ, ngày Mười Sáu xả. Trong các hôm trai nhật trên đây, hãy quy mạng Tây Phương A Di Đà Chánh Đẳng Chánh Giác, Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát, tam độc tiêu trừ, sanh về trước mặt các vị ấy).

 

* Đại Thừa Đại Phương Đẳng Nhật Tạng Kinh

(大乘大方等日藏經)

 

          Phật ngôn: – Dục sanh thanh tịnh Phật sát, bất sanh chướng ngại, nhi thử chúng sanh, ưng tịnh tẩy dục, trước tiên khiết y, thái sắc trường trai, vật đạm tân xú, ư tịch tĩnh xứ, chánh niệm kết già, hoặc hành, hoặc tọa, niệm Phật thân tướng, cánh mạc tha duyên. Hoặc nhất nhật dạ, hoặc thất nhật dạ, chí tâm niệm Phật, nãi chí kiến Phật, tiểu niệm kiến tiểu, đại niệm kiến đại. Nãi chí vô lượng niệm giả, kiến Phật sắc thân, vô lượng vô biên (CBETA, T47, no.1969A, p.160, a21-27).

          佛言。欲生清凈佛剎。不生障礙。而此眾生。應凈洗浴。着鮮潔衣。菜色長齋。勿啖辛臭。於寂靜處。正念結跏。或行或坐。念佛身相。更莫他緣。或一日夜。或七日夜。至心念佛。乃至見佛。小念見小。大念見大。乃至無量念者。見佛色身。無量無邊。

          (Đức Phật dạy: – Muốn sanh về cõi Phật thanh tịnh, chẳng sanh chướng ngại thì những chúng sanh ấy hãy nên tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch sẽ, ăn chay trường với thực vật, đừng ăn những thứ cay nồng, hôi thối, ở chỗ vắng lặng, chánh niệm, ngồi kết già, hoặc đi, hoặc ngồi, niệm thân tướng của Phật, đừng nghĩ đến các duyên khác. Hoặc một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, chí tâm niệm Phật cho đến khi thấy Phật. Niệm nhỏ sẽ thấy [hình tượng Phật] nhỏ, niệm lớn sẽ thấy lớn. Cho đến vô lượng niệm, sẽ thấy sắc thân của Phật vô lượng vô biên).

 

* Tư Duy Lược Yếu Pháp

(思惟略要法)

 

          Quán Vô Lượng Thọ Phật giả, hữu nhị chủng nhân. Độn căn giả, tiên đương giáo linh tâm nhãn quán sát ngạch thượng nhất thốn, trừ khước bì nhục, đản kiến xích cốt, hệ niệm tại duyên, bất linh tha niệm. Tâm nhược dư duyên, nhiếp chi linh hoàn. Đắc như thị kiến giả, đương phục giáo linh biến thử xích cốt, tích phương nhất thốn, linh bạch như kha. Ký đắc như thị kiến, đương cánh giáo linh biến thử cốt thân sử thử lưu ly quang sắc, thanh tịnh thị biểu triệt lý. Ký đắc như thị kiến giả, đương phục giáo linh tùng thử lưu ly thân trung, phóng bạch quang minh tự cận cập viễn, biến mãn Diêm Phù, duy kiến quang minh, bất kiến chư vật. Hoàn nhiếp quang minh, nhập ư thân trung. Ký nhập chi hậu, phục phóng như sơ. Phàm thử chư quán, tùng dị cập nan. Kỳ bạch diệc ưng sơ thiểu hậu đa. Ký năng như thị, đương tùng thân trung phóng thử bạch quang. Nãi ư quang trung, quán Vô Lượng Thọ Phật. Vô Lượng Thọ Phật, kỳ thân xu đại, quang minh diệc diệu, Tây hướng đoan tọa, tướng tướng đế thủ. Nhiên hậu tổng quán kỳ thân, kết già phu tọa, nhan dung nguy nguy, như tử kim sơn, hệ niệm tại Phật, bất linh tha duyên. Tâm nhược dư duyên, nhiếp chi linh hoàn. Thường như dữ Phật đối tọa bất dị. Như thị bất cửu, tiện khả đắc kiến. Nhược lợi căn giả, đản đương tiên tác minh tưởng, hoảng nhiên không tịnh, nãi ư minh trung quán Phật, tiện khả đắc kiến. Hành giả dục dục sanh ư Vô Lượng Thọ Phật quốc giả, đương tác như thị quán Vô Lượng Thọ Phật dã. Dục sanh Vô Lượng Thọ Phật quốc giả, ưng đương như thị thượng quán Vô LượngThọ Phật. Hựu quán chư pháp Thật Tướng, nhi ư chúng sanh thường hưng đại bi. Sở hữu thiện bổn tận dĩ hồi hướng, nguyện sanh Vô Lượng Thọ Phật quốc, tiện đắc vãng sanh (CBETA, T15, no.617, p.300, b22-23).

          觀無量壽佛者。有二種人。鈍根者。先當教令心眼觀察額上一寸。除卻皮肉。但見赤骨。繫念在緣。不令他念。心若余緣。攝之令還。得如是見者。當復教令變此赤骨。辟方一寸。令白如珂。既得如是見。當更教令變此骨身使此琉璃光色。清凈視表徹里。既得如是見者。當復教令從此琉璃身中。放白光明。自近及遠。遍滿閻浮。惟見光明。不見諸物。還攝光明。入於身中。既入之後。復放如初。凡此諸觀。從易及難。其白亦應初少后多。既能如是。當從身中放此白光。乃於光中。觀無量壽佛。無量壽佛。其身姝大。光明亦妙。西向端坐。相相諦取。然後總觀其身。結跏趺坐。顏容巍巍。如紫金山。繫念在佛。不令他緣。心若余緣。攝之令還。常如與佛對坐不異。如是不久。便可得見。若利根者。但當先作明想。晃然空凈。乃於明中觀佛。便可得見。行者欲欲生於無量壽佛國者。當作如是觀無量壽佛也。欲生無量壽佛國者。應當如是上觀無量壽佛。又觀諸法實相。而於眾生常興大悲。所有善本盡以迴向。願生無量壽佛國。便得往生。

          (Kẻ quán Vô Lượng Thọ Phật thì có hai hạng người. Đối với kẻ độn căn, trước hết hãy dạy cho kẻ ấy dùng tâm nhãn quán sát phía trên trán một tấc, trừ bỏ da thịt ra, chỉ thấy xương đỏ. Hãy duyên vào đó để hệ niệm, đừng nghĩ chi khác. Nếu tâm duyên theo điều khác, hãy nhiếp tâm trở lại đó. Được thấy như thế, lại dạy [hành nhân quán tưởng], biến miếng xương đỏ ấy tách ra vuông vức chừng một tấc, tưởng xương trắng như ngọc. Đã được thấy như thế, hãy nên dạy kẻ đó tưởng xương nơi thân này biến thành có màu sắc và sáng ngời như lưu ly, thanh tịnh nhìn thấu suốt từ ngoài vào trong. Đã được thấy như thế, lại nên dạy kẻ ấy từ trong thân lưu ly ấy, tỏa quang minh màu trắng từ gần đến xa. Trọn khắp cõi Diêm Phù, chỉ thấy quang minh, chẳng thấy các vật. Thâu hồi quang minh trở lại, nhập vào trong [thân thể]. Đã nhập rồi, lại tỏa ra như trước. Phàm là các phép quán này, [hãy nên tu tập] từ dễ đến khó. Đối với ánh sáng trắng cũng nên [quán tưởng] trước ít, sau nhiều. Đã có thể như vậy, hãy nên từ trong thân, tỏa ra ánh sáng trắng ấy. Ở trong ánh sáng, quán Vô Lượng Thọ Phật. Vô Lượng Thọ Phật thân thể đẹp đẽ, to lớn, quang minh cũng mầu nhiệm. Ngồi ngay ngắn hướng về Tây, quán chắc chắn từng tướng một. Sau đấy bèn quán chung thân Ngài, ngồi xếp bằng, dung nhan vòi vọi như tòa núi vàng tía. Hãy hệ niệm đức Phật, chẳng duyên theo những điều khác. Nếu tâm duyên theo những điều khác, hãy nhiếp tâm trở lại. Hãy thường như ngồi đối diện với Phật, chẳng khác! Như thế thì chẳng lâu sau, sẽ có thể được thấy. Nếu là kẻ lợi căn, chỉ nên trước hết tưởng quang minh, rạng ngời, rỗng rang, thanh tịnh, rồi từ trong quang minh mà quán Phật thì sẽ có thể được thấy. Hành giả muốn được sanh về cõi Vô Lượng Thọ Phật, hãy nên quán Vô Lượng Thọ Phật như thế. Kẻ muốn sanh về cõi Vô Lượng Thọ Phật, hãy nên quán Vô Lượng Thọ Phật như trên đây. Lại quán Thật Tướng của các pháp, đối với chúng sanh thường dấy lòng đại bi, hồi hướng trọn hết tất cả các gốc thiện, nguyện sanh về cõi Vô Lượng Thọ Phật thì sẽ được vãng sanh).

 

* Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Địa Tướng Phẩm

(十住毗婆沙論地相品)

 

          Bồ Tát tại Sơ Địa trung, tâm đa hoan hỷ. Niệm chư Phật giả, niệm Nhiên Đăng đẳng quá khứ chư Phật, A Di Đà đẳng hiện tại chư Phật (CBETA, T26, no.1521, p.26, b26-28).

          菩薩在初地中。心多歡喜。念諸佛者。念然燈等過去諸佛。阿彌陀等現在諸佛。

          (Bồ Tát thuộc Sơ Địa, tâm có nhiều niềm hoan hỷ. Niệm chư Phật là niệm chư Phật quá khứ như Nhiên Đăng, niệm chư Phật hiện tại như A Di Đà Phật…)

 

* Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Dị Hành Phẩm

(十住毗婆沙論易行品)

 

          Phật tự ư kinh trung, giải thuyết như thị sự. Như nhân tham thọ giả, trảm thủ tắc đại úy, Bồ Tát diệc như thị. Nhược ư Thanh Văn địa, cập Bích Chi Phật địa, ưng sanh đại bố úy. Thị cố nhược chư Phật sở thuyết, hữu Dị Hành Đạo, tật đắc chí A Duy Việt Trí phương tiện giả, nguyện vị thuyết chi… Phật pháp hữu vô lượng môn, như thế gian đạo, hữu nan, hữu dị. Lục đạo bộ hành tắc khổ, thủy đạo thừa thuyền tắc lạc. Bồ Tát đạo diệc như thị, hoặc hữu cần hành tinh tấn. Hoặc hữu dĩ tín phương tiện dị hành, tật chí A Duy Việt Trí giả… Nhược nhân dục tật chí Bất Thoái Chuyển địa giả, ưng dĩ cung kính tâm, chấp trì xưng danh hiệu. Đản văn thị thập Phật danh hiệu, chấp trì tại tâm, tiện đắc bất thoái A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vi cánh hữu dư Phật, dư Bồ Tát danh đắc chí A Duy Việt Trí da? Đáp viết: “A Di Đà đẳng Phật, cập chư đại Bồ Tát, xưng danh nhất tâm niệm, diệc đắc bất thoái chuyển” (CBETA, T26, no.1521).

          佛自於經中。解說如是事。如人貪壽者。斬首則大畏。菩薩亦如是。若於聲聞地。及辟支佛地。應生大怖畏。是故若諸佛所說。有易行道。疾得至阿惟越致方便者。願為說之。…佛法有無量門。如世間道。有難有易。陸道步行則苦。水道乘船則樂。菩薩道亦如是。或有勤行精進。或有以信方便易行。疾至阿惟越致者。…若人慾疾至。不退轉地者。應以恭敬心。執持稱名號。但聞是十佛名號。執持在心。便得不退阿耨多羅三藐三菩提。為更有餘佛余菩薩名。得至阿惟越致耶。答曰。阿彌陀等佛。及諸大菩薩。稱名一心念。亦得不退轉。

          (Từ trong kinh, đức Phật đã giải thích chuyện như thế này: Như kẻ tham sống lâu, rất sợ bị chém đầu. Bồ Tát cũng giống như vậy. Đối với địa vị Thanh Văn và địa vị Bích Chi Phật, hãy nên sanh lòng sợ hãi to lớn. Do vậy, như chư Phật đã nói, có Dị Hành Đạo (đạo dễ hành) là phương tiện mau chóng để đạt tới A Duy Việt Trí (A Bệ Bạt Trí, Bất Thoái Chuyển), xin hãy nói cho…

          Phật pháp có vô lượng môn, như đường đi trong thế gian có dễ, có khó. Đi bộ theo đường trên đất liền, sẽ khổ sở; theo đường thủy ngồi thuyền sẽ vui sướng. Bồ Tát đạo cũng giống như thế, có con đường cần phải siêng năng, tinh tấn hành trì; hoặc có con đường dùng phương tiện tín nguyện dễ hành, mau chóng đạt tới A Duy Việt Trí… Nếu ai muốn mau chóng đạt tới địa vị Bất Thoái Chuyển, hãy nên dùng cái tâm cung kính để chấp trì, xưng danh hiệu.

          Chỉ nghe mười danh hiệu ấy của đức Phật (tức Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, Thiện Thệ v.v…), chấp trì trong tâm, sẽ được chẳng lui sụt nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vậy thì có danh hiệu Phật hay danh hiệu Bồ Tát nào khác, [khiến cho hành giả chấp trì] sẽ đạt được địa vị A Duy Việt Trí hay không? Đáp rằng: “Xưng danh, nhất tâm niệm A Di Đà Phật và danh hiệu của các vị đại Bồ Tát thì cũng được bất thoái chuyển”).

 

* Đại Trí Độ Luận, quyển nhị thập nhất

(大智度論卷二十一)

 

          Phục thứ, niệm Phật Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Kiến, đại từ, đại bi, thập lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại trí, thập bát bất cộng pháp đẳng. Niệm như Phật sở tri vô lượng bất khả tư nghị chư công đức. Thị danh niệm Phật. Thị niệm tại Thất Địa trung, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu. Hữu lậu giả hữu báo, vô lậu giả vô báo. Tam căn tương ứng, lạc, hỷ, xả căn, hành đắc, diệc quả báo đắc. Hành đắc giả như thử gian quốc trung học Niệm Phật tam-muội. Quả báo đắc giả như Vô Lượng Thọ Phật nhân sanh tức năng niệm Phật (CBETA, T25, no.1509, p.221, b1-8).

          復次。念佛一切智、一切見、大慈、大悲、十力、四無所畏、四無礙智、十八不共法等。念如佛所知無量不可思議諸功德。是名念佛。是念在七地中。或有漏。或無漏。有漏者有報。無漏者無報。三根相應。樂喜舍根。行得亦果報得。行得者如此間國中學念佛三昧。果報得者。如無量壽佛國人生即能念佛。

          (Lại nữa, niệm Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Kiến, đại từ, đại bi, thập lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại trí, mười tám pháp bất cộng v.v… của Phật. Niệm vô lượng các công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật như đã biết. Đấy gọi là niệm Phật. Cách niệm này thuộc về Thất Địa, có hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là có báo, còn vô lậu là không có báo. Ba căn tương ứng với Lạc căn, Hỷ căn và Xả căn. [Cách niệm Phật này] cũng [có hai loại là] đạt được do tu tập và đạt được do quả báo. Đạt được do tu tập là như ở trong cõi thế gian này mà học Niệm Phật tam-muội. Do quả báo mà đạt được là như người sanh trong nước Vô Lượng Thọ Phật sẽ liền có thể niệm Phật [theo cách này]).

 

* Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá Nguyện Sanh Kệ

(無量壽經優波提舍願生偈)

 

          Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân tu ngũ niệm môn thành tựu giả, tất cánh đắc sanh An Lạc quốc độ, kiến A Di Đà Phật. Hà đẳng ngũ niệm môn? Nhất giả lễ bái môn, nhị giả tán thán môn, tam giả tác nguyện môn, ngũ giả hồi hướng môn. Vân hà lễ bái? Thân nghiệp lễ bái A Di Đà Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, vị sanh bỉ quốc ý cố. Vân hà tán thán? Khẩu nghiệp tán thán xưng bỉ Như Lai danh. Như bỉ Như Lai quang minh trí tướng, như bỉ danh nghĩa, dục như thật tu hành tương ứng cố. Vân hà tác nguyện? Tâm thường tác nguyện, nhất tâm chuyên niệm tất cánh vãng sanh An Lạc quốc độ, dục như thật tu hành Xa-ma-tha cố. Vân hà quán sát? Trí huệ quán sát, chánh niệm quán bỉ. Dục như thật tu hành Tỳ Bà Xá Na cố. Bỉ quán sát hữu tam chủng, hà đẳng tam chủng? Nhất giả quán sát bỉ Phật quốc độ công đức trang nghiêm. Nhị giả quán sát A Di Đà Phật công đức trang nghiêm. Tam giả quán sát bỉ chư Bồ Tát công đức trang nghiêm. Vân hà hồi hướng? Ư bỉ quán sát bất xả nhất thiết khổ não chúng sanh, đồng nguyện sanh bỉ An Lạc quốc độ. Nguyện tâm sở hữu công đức thiện căn, dĩ xảo phương tiện, tác nguyện hồi hướng, nhiếp thủ chúng sanh, bất xả nhất thiết cố. Quán sát bỉ Phật quốc độ công đức trang nghiêm giả, hữu thập thất chủng sự ưng tri. Hà giả thất thập? Nhất giả thanh tịnh công đức thành tựu. Nhị giả vô lượng công đức thành tựu. Tam giả tánh công đức thành tựu. Tứ giả hình tướng công đức thành tựu. Ngũ giả chủng chủng sự công đức thành tựu. Lục giả diệu sắc công đức thành tựu. Thất giả xúc công đức thành tựu. Bát giả trang nghiêm công đức thành tựu. Cửu giả vũ công đức thành tựu. Thập giả quang minh công đức thành tựu. Thập nhất giả thanh công đức thành tựu. Thập nhị giả chủ công đức thành tựu. Thập tam giả quyến thuộc công đức thành tựu. Thập tứ giả thọ dụng công đức thành tựu. Thập ngũ giả vô chư nạn công đức thành tựu. Thập lục giả đại nghĩa môn công đức thành tựu. Thập thất giả nhất thiết sở cầu công đức thành tựu… Quán Phật công đức trang nghiêm thành tựu giả, hữu bát chủng ưng tri. Nhất giả tòa trang nghiêm. Nhị giả thân trang nghiêm. Tam giả khẩu trang nghiêm. Tứ giả tâm trang nghiêm. Ngũ giả chúng trang nghiêm. Lục giả thượng thủ trang nghiêm. Thất giả chủ trang nghiêm. Bát giả bất hư tác trụ trì trang nghiêm… Quán Bồ Tát công đức trang nghiêm thành tựu giả, quán bỉ Bồ Tát hữu tứ chủng chánh hạnh công đức thành tựu ưng tri, hà đẳng vi tứ? Nhất giả ư nhất Phật độ thân bất động dao, nhi biến thập phương chủng chủng ứng hóa, như thật tu hành, thường tác Phật sự… Nhị giả bỉ ứng hóa thân, nhất thiết thời bất tiền, bất hậu, nhất tâm, nhất niệm, phóng đại quang minh, tất năng biến chí thập phương thế giới, giáo hóa chúng sanh, chủng chủng phương tiện, tu hành sở tác, diệt trừ nhất thiết chúng sanh khổ cố… Tam giả bỉ ư nhất thiết thế giới, vô dư chiếu chư Phật hội đại chúng, vô dư quảng đại vô lượng cúng dường, cung kính tán thán chư Phật Như Lai… Tứ giả bỉ ư thập phương nhất thiết thế giới vô Tam Bảo xứ, trụ trì trang nghiêm Phật Pháp Tăng bảo công đức đại hải, biến thị linh giải, như thật tu hành… Thử tam chủng thành tựu nguyện tâm công đức trang nghiêm. Lược thuyết nhập nhất pháp cú cố. Nhất pháp cú giả, vị thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú giả, vị chân thật trí huệ vô vi Pháp Thân cố(CBETA, T26, no.1524, p.232, b23-25).                若善男子善女人。修五念門成就者。畢竟得生安樂國土。見阿彌陀佛。何等五念門。一者禮拜門。二者讚歎門。三者作願門。四者觀察門。五者迴向門。云何禮拜。身業禮拜阿彌陀如來應正遍知。為生彼國意故。云何讚歎。口業讚歎稱彼如來名。如彼如來光明智相。如彼名義。欲如實修行相應故。云何作願。心常作願。一心專念畢竟往生安樂國土。欲如實修行奢摩他故。云何觀察。智慧觀察。正念觀彼。欲如實修行毗婆舍那故。彼觀察有三種。何等三種。一者觀察彼佛國土功德莊嚴。二者觀察阿彌陀佛功德莊嚴。三者觀察彼諸菩薩功德莊嚴。云何迴向。於彼觀察不舍一切苦惱眾生。同願生彼安樂國土。願心所有功德善根。以巧方便。作願迴向。攝取眾生。不舍一切故。觀察彼佛國土功德莊嚴者。有十七種事應知。何者十七。一者清凈功德成就。二者無量功德成就。三者性功德成就。四者形相功德成就。五者種種事功德成就。六者妙色功德成就。七者觸功德成就。八者莊嚴功德成就。九者雨功德成就。十者光明功德成就。十一者聲功德成就。十二者主功德成就。十三者眷屬功德成就。十四者受用功德成就。十五者無諸難功德成就。十六者大義門功德成就。十七者一切所求功德成就。…觀佛功德莊嚴成就者。有八種應知。何等八種。一者座莊嚴。二者身莊嚴。三者口莊嚴。四者心莊嚴。五者眾莊嚴。六者上首莊嚴。七者主莊嚴。八者不虛作住持莊嚴。…觀菩薩功德莊嚴成就者。觀彼菩薩有四種正行功德成就應知。何等為四。一者於一佛土身不動搖。而遍十方種種應化。如實修行常作佛事。…二者彼應化身。一切時不前不後。一心一念。放大光明。悉能遍至十方世界。教化眾生。種種方便。修行所作。滅除一切眾生苦故。…三者彼於一切世界。無餘照諸佛會大眾。無餘廣大無量供養恭敬讚歎諸佛如來。…四者彼於十方一切世界無三寶處。住持莊嚴佛法僧寶功德大海。遍示令解。如實修行。…此三種成就願心功德莊嚴。略說入一法句故。一法句者。謂清凈句。清凈句者。謂真實智慧無為法身故。

          (Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu ngũ niệm môn thành tựu, sẽ rốt ráo được sanh về cõi nước An Lạc, thấy A Di Đà Phật. Ngũ niệm môn là gì? Một là lễ bái môn, hai là tán thán môn, ba là tác nguyện môn, bốn là quán sát môn, năm là hồi hướng môn.

          1) Lễ bái là như thế nào? Thân nghiệp lễ bái A Di Đà Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, vì muốn sanh về cõi ấy.

          2) Tán thán là như thế nào? Khẩu nghiệp tán thán, xưng danh hiệu của đức Như Lai ấy. Như quang minh, trí tướng, danh nghĩa của đức Như Lai ấy, vì mong như thật tu hành tương ứng.

          3) Tác nguyện là như thế nào? Tâm thường phát nguyện, nhất tâm chuyên niệm rốt ráo vãng sanh cõi nước An Lạc, vì muốn như thật tu hành Xa-ma-tha (Chỉ).

          4) Quán sát là như thế nào? Dùng trí huệ quán sát, chánh niệm quán sát những điều ấy, vì muốn như thật tu hành Tỳ Bà Xá Na (Quán). Sự quán sát ấy có ba loại. Những gì là ba?

          4.1. Một là quán sát công đức trang nghiêm của cõi Phật ấy.

          4.2. Hai là quán sát công đức trang nghiêm của A Di Đà Phật.

          4.3. Ba là quán sát công đức trang nghiêm của các vị Bồ Tát trong cõi ấy.

          5) Hồi hướng là như thế nào? Đối với những chúng sanh khổ não đã quán sát, chẳng lìa bỏ họ, nguyện họ cùng được sanh về cõi nước An Lạc, nguyện tâm dùng tất cả công đức, thiện căn, dùng phương tiện thiện xảo để phát nguyện, hồi hướng, nhiếp thủ chúng sanh, chẳng xả hết thảy.

          4.1. Quán sát công đức trang nghiêm của cõi nước Phật ấy, hãy nên biết có mười bảy sự. Những gì là mười bảy?

          – Một là thanh tịnh công đức thành tựu.

          – Hai là vô lượng công đức thành tựu.

          – Ba là tánh công đức thành tựu.

          – Bốn là hình tướng công đức thành tựu.

          – Năm là các thứ sự công đức thành tựu.

          – Sáu là diệu sắc công đức thành tựu.

          – Bảy là xúc công đức thành tựu.

          – Tám là trang nghiêm công đức thành tựu.

          – Chín là vũ công đức thành tựu (công đức thành tựu nơi mưa [các loại hoa trời]).

          – Mười là quang minh công đức thành tựu.

          – Mười một là thanh công đức thành tựu (công đức thành tựu nơi âm thanh của nước, chim, cây báu, quang minh).

          – Mười hai là chủ công đức thành tựu (công đức thành tựu của đức giáo chủ cõi ấy, tức A Di Đà Phật).

          – Mười ba là quyến thuộc công đức thành tựu (công đức thành tựu của Bồ Tát, Thanh Văn, trời, người trong cõi Cực Lạc).

          – Mười bốn là thọ dụng công đức thành tựu (công đức thành tựu nơi sự hưởng thụ như cung điện, ao tắm, y phục, ăn uống, du hóa tự tại cúng dường mười phương Phật v.v…).

          – Mười lăm là công đức thành tựu không có các nạn.

          – Mười sáu là đại nghĩa môn công đức thành tựu.

          – Mười bảy là công đức thành tựu hết thảy những mong cầu…

          4.2. Quán Phật công đức trang nghiêm thành tựu thì hãy nên biết có tám thứ:          – Một là tòa trang nghiêm.

          – Hai là thân trang nghiêm.

          – Ba là khẩu trang nghiêm.

          – Bốn là tâm trang nghiêm.

          – Năm là chúng trang nghiêm.

          – Sáu là thượng thủ trang nghiêm.

          – Bảy là chủ trang nghiêm.

          – Tám là trụ trì, chẳng tạo tác hư giả trang nghiêm…

          4.3. Quán công đức trang nghiêm thành tựu của Bồ Tát là quán các vị Bồ Tát ấy có bốn thứ chánh hạnh công đức thành tựu, hãy nên biết. Những gì là bốn?

          – Một là trong một cõi Phật, thân chẳng lay động, mà đủ loại ứng hóa trọn khắp mười phương, như thật tu hành, thường làm Phật sự…

          – Hai là ứng hóa thân của các Ngài, trong hết thảy thời, chẳng trước, chẳng sau, nhất tâm, nhất niệm, tỏa quang minh lớn, ắt đều có thể chiếu thấu trọn khắp mười phương thế giới, giáo hóa chúng sanh, thực hiện đủ mọi phương tiện, diệt trừ nỗi khổ của hết thảy chúng sanh…

          – Ba là trong hết thảy các thế giới, chiếu thấu đại chúng trong hội của chư Phật chẳng sót, cúng dường, cung kính, tán thán chư Phật Như Lai rộng lớn vô lượng, chẳng thừa sót…

          – Bốn là trong mười phương hết thảy các thế giới, nơi nào không có Tam Bảo, sẽ trụ trì biển lớn công đức trang nghiêm Phật Pháp Tăng Bảo, chỉ dạy trọn khắp, khiến cho họ thấu hiểu, như thật tu hành…

          Ba thứ thành tựu tâm nguyện công đức trang nghiêm ấy, nói đại lược sẽ gộp vào một pháp cú. Một pháp cú là một câu thanh tịnh. Câu thanh tịnh ấy chính là “Pháp Thân vô vi trí huệ chân thật”).

 

          Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới tam thập lục vạn ức nhất thập nhất vạn cửu thiên ngũ bách đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật.

          Tích Thích Ca Phật ư nhất tục xá trung, ông bà nhị nhân, dĩ cốc nhất đẩu ký số, cộng niệm A Di Đà Phật, nguyện sanh Tịnh Độ. Phật ngôn: “Ngã hữu dị phương tiện, linh nhữ ư nhất thanh trung niệm đắc đa cốc số, toại linh niệm thượng Phật danh” (CBETA, T47, no.1936A, p.161, c21-26).

          南無西方極樂世界三十六萬億一十一萬九千五百同名同號阿彌陀佛。

          昔釋迦佛於一俗舍中。翁婆二人。以穀一斗記數。共念阿彌陀佛。願生凈土。佛言。我有異方便。令汝於一聲中念得多穀數。遂令念上佛名。

          (Nam mô ba mươi sáu vạn ức mười một vạn chín ngàn năm trăm vị Phật có cùng danh hiệu là A Di Đà Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.

          Xưa kia, Thích Ca Mâu Ni Phật ở một nhà thế tục. Hai ông bà lão dùng một đấu gạo để ghi nhớ số, cùng niệm A Di Đà Phật, nguyện sanh Tịnh Độ. Đức Phật bảo: “Ta có phương tiện lạ, khiến cho các vị trong một câu niệm sẽ niệm được số gạo khá nhiều”).

          Chuyện trên đây được ghi trong sách Lạc Bang Văn Loại.

A Di Đà Phật Thánh Điển

Phần 3 hết

 

[1] “Tầm” (尋) ở đây là một đơn vị đo lường thời cổ, bằng tám thước (thước Tàu).

[2] Tam Mạn Đà Bạt Đà La (Samantabhadra) là danh xưng trong tiếng Phạn của Phổ Hiền Bồ Tát.

[3] Theo Phật Học Từ Điển của Đinh Phước Bảo, A Ma Đề là phiên âm của chữ Abhetri, có nghĩa là Vô Úy. Đây cũng là một biệt danh của Quán Thế Âm Bồ Tát.

[4] Theo Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo, Ca Chiên Lân Đà (Kācalindikāka) còn phiên âm là Ca Chiên Lân Địa, Ca Chỉ Lân Na, Ca Giá Lân Để Ca, Ca Chân Na Để Ca, Ca Lân Đà… là tên một loài chim, dịch nghĩa là Khả Ái Điểu. Kinh Chánh Pháp Niệm đã giảng rõ: “Ca Chiên Lân Đề, hải trung điểu, xúc chi đại lạc, hữu Luân Vương xuất thế, thử điểu tắc hiện” (Ca Chiên Lân Đề là một loài chim sống trong biển, chạm vào sẽ vui sướng lớn lao. Có Luân Vương xuất hiện trong cõi đời, loài chim này mới xuất hiện).

[5] Do số chữ có giới hạn nên hai câu này rất dễ gây hiểu lầm. Ý lời kệ là: Cực Lạc là cõi sanh từ thiện căn Đại Thừa, trong cõi ấy, không có những danh xưng gây nên tỵ hiềm (chán ghét, chê bai). Cho nên trong cõi ấy không có nữ nhân. Người trong Cực Lạc các căn viên mãn nên không có ai là người bị thiếu khuyết các căn. Trong cõi Cực Lạc, toàn là căn tánh Đại Thừa, nên không có danh xưng Nhị Thừa. Kinh Di Đà nói đến Thanh Văn, tức là nói đến những pháp tu tập của hành giả trước khi vãng sanh. Chứ nếu hành nhân tu pháp Nhị Thừa mà không hồi tiểu hướng Đại, sẽ không thể vãng sanh. Lời kệ hoàn toàn không có ý nói người nữ, người tàn tật sẽ không được vãng sanh.

[6] Câu này có nghĩa là đại chúng cung kính vây quanh, chiêm ngưỡng đức Thiên Nhân Trượng Phu (Thiên Nhân Trượng Phu là một trong mười đức hiệu của Phật).

[7] Theo Đinh Phước Bảo, Tu Ma Đề là tên gọi khác của Cực Lạc, có nghĩa là Diệu Ý hoặc Hảo Ý.

[8] Thế Chủ: Chủ của thế gian, danh xưng này để gọi chung các vị đại thiên chúa như Tứ Vương Thiên, Đế Thích, Đại Phạm Thiên Vương, Ma Hê Thủ La Thiên v.v…

 

 


Chương trước Chương tiếp
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.

Bài mới

  • Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Thiển Thích
  • Con Gái Đức Phật
  • Truyện Tiền Thân Đức Phật Thích Ca (song ngữ)
  • SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
  • TRẦN NHÂN TÔNG VỚI THIỀN PHÁI TRÚC LÂM

Meta

  • Log in
  • Entries feed
  • Comments feed
  • WordPress.org
  • Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Thiển Thích, Con Gái Đức Phật, Truyện Tiền Thân Đức Phật Thích Ca (song ngữ), SỰ TÍCH ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI, TRẦN NHÂN TÔNG VỚI THIỀN PHÁI TRÚC LÂM, Liên Hoa Hóa Sanh - Pháp Sư Đạo Chứng, Luân Lý Giáo Khoa Thư, Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Kinh Bảo Khiếp Ấn Thần Chú về Bí Mật Toàn Thân Xá-lợi ở Trong Tâm của Tất Cả Như Lai, Đại Cương Kinh Thủ Lăng Nghiêm,