CHƯƠNG IV
ÂN NẶNG QUỐC GIA
Ân quốc gia, luôn phải nhớ
Chim có tổ, người có tông
Bậc có công, ta phải báo
Biết tự hào, người Việt Nam.
Sử sách ghi, ta thường đọc
Học để nhớ, để biết ơn
Yêu tổ quốc, yêu đồng bào
Sống làm sao, cho xứng đáng.
Con của Rồng, cháu của Tiên
Trăm anh em, khi dựng nước
Nửa theo cha, nửa theo mẹ
Mẹ lên rừng, cha xuống biển.
Xây thành luỹ, đặt quốc hiệu
Các vua Hùng, gọi Văn Lang
An Dương Vương, gọi Âu Lạc
Tích nỏ thần, mãi khắc ghi.
Triệu Đà Vương, mưu xảo quyệt
Lấy người Việt, trị người Việt
Khiến đất nước, chịu lầm than
Dân cơ hàn, bao khổ cực.
Đất Mê Linh, sinh Nữ Tướng
Là Trưng Trắc, và Trưng Nhị
Đuổi Tô Định, quét Hán gian
Rửa hận nước, trả thù nhà.
Thế giặc mạnh, nước còn xuân
Hai Bà đi, dân lại khóc
Ách đô hộ, lắm lầm than
Triệu Thị Trinh, toan khởi nghĩa.
Năm Nhâm Tuất, rằm tháng giêng
Có Lý Bôn, dựng cờ nghĩa
Triệu Quang Phục, Tướng Phạm Tu
Tướng Tinh Thiều, cùng hợp sức.
Đuổi Tiêu Tư, đón Hợp Phố
Dẹp quân Lương, xưng Hoàng Đế
Năm bốn bốn, dựng kinh đô
Đặt quốc hiệu, là Vạn Xuân.
Cuộc khởi nghĩa, Mai Thúc Loan
Thu Châu Hoan, đuổi giặc Đường
Từ Hùng Sơn, tới Vạn An
Thống giang sơn, xưng Hoàng Đế.
Đất Đường Lâm, sinh Hổ Tướng
Anh Phùng Hưng, em Hải, Dĩnh
Dựng cờ nghĩa, quét giặc thù
Thu Tống Bình, xưng Hoàng Đế.
Khúc Thừa Dụ, lấy Tống Bình
Phục danh nghĩa, thật tự chủ
Dương Đình Nghệ, đuổi Chính, Tiến
Giành Đại La, lo việc nước.
Ngô Quyền Vương, phá Nam Hán
Sông Bạch Đằng, sử chói chang
Thành Cổ Loa, đặt triều chính
Hai sáu năm, cai trị nước.
Loạn sứ quân, dân khổ cực
Đinh Bộ Lĩnh, phất cờ lau
Dẹp sứ quân, xưng Hoàng Đế
Mở vận nước, dựng kinh đô.
Lê Đại Hành, nối nghiệp vua
Xưng Hoàng Đế, dẹp xâm lăng
Xây bờ cõi, dựng cơ đồ
Trong ngoài yên, dân lạc nghiệp.
Sư Vạn Hạnh, giải sấm truyền
Lê vận hết, Lý đi lên
Đào Cam Mộc, quân dân đồng
Cùng suy tôn, Lý Công Uẩn.
Lý Thái Tổ, chiếu rời Đô
Từ Hoa Lư, về Đại La
Mộng rồng vàng, đổi Thăng Long
Tạo kế lâu, truyền tám đời.
Trần Thủ Độ, lập kế sâu
Đưa Trần Cảnh, lên Hoàng Đế
Nối nhà Lý, rạng nhà Trần
Ngàn đời sau, dân còn nhớ.
Từ Thái Tông, đến Nhân Tông
Bi Trí Dũng, được vẹn toàn
Chống quân Nguyên, đuổi giặc thù
Vững biên cương, yên bờ cõi.
Chốn rừng thiêng, non Yên Tử
Tâm hướng Phật, chí xuất gia
Thái Tông về, Nhân Tông tới
Bỏ cao sang, hành khổ hạnh.
Tâm chứng ngộ, được giải thoát
Mở thiền phái, lập tông phong
Đi khắp nơi, truyền đạo đức
Khiến dân an, hành chính đạo.
Hưng Đạo Vương, Trần Quang Khải
Các tướng tài, lập chiến công
Báo quốc ân, phụ triều chính
Khắp năm châu, danh lừng lẫy.
Mười hai vua, triều nhà Trần
Mở giang sơn, thông vận nước
Dân an cư, dân lạc nghiệp
Lý sang Trần, dân hạnh phúc.
Hồ Quý Ly, mưu đoạt vị
Trị bảy năm, thì mất nước
Kỷ thuộc Minh, hai mươi mùa
Dân lầm than, toan khởi nghĩa.
Đất Lam Sơn, hội nhân tài
Dựng cờ xí, đuổi giặc Minh
Thống giang sơn, lập cơ đồ
Bình Định Vương, khôi Đại Việt.
Một trăm năm, mười đời vua
Khi thịnh đạt, lúc suy vi
Đặt khoa thi, chọn người hiền
Trọng tiến sĩ, khắc bia truyền.
Mạc Đăng Dung, mưu soán đoạt
Cướp vương vị, bức Chiêu Tông
Tự xưng vương, truyền hậu bối
Được năm đời, sáu lăm năm.
Qua Lê sơ, tới Lê mạt
Chống họ Mạc, phục giang sơn
Năm mươi năm, Nam-Bắc triều
Dân lầm than, bao khổ cực.
Mạc bại vong, Lê toàn thắng
Nhà Lê suy, Trịnh tiếm quyền
Cung vua Lê, phủ chúa Trịnh
Khiến vận nước, như dây cuốn.
Đất Tây Sơn, sinh Nguyễn Huệ
Ba ra Bắc, ba về Nam
Dẹp nhà Trịnh, phù nhà Lê
Diệt quân Thanh, xưng Hoàng Đế.
Khi Nguyễn Hoàng, lánh về Nam
Trọng khai hoang, nhẹ tô thuế
Được lòng dân, gọi “Chúa Tiên”
Tạo cơ đồ, cho họ Nguyễn.
Vua Nguyễn Ánh, hiệu Gia Long
Thống sơn hà, yên bờ cõi
Định kinh đô, xưng Hoàng Đế
Đặt tên nước, là Việt Nam.
Ba triều vua, đầu độc lập
Dân ấm no, rộng bờ cõi
Kỳ Pháp thuộc, dân lầm than
Mười đời sau, Bảo Đại cuối.
Yêu tổ quốc, thương đồng bào
Bến Nhà Rồng, Bác ra đi
Tìm con đường, cứu dân tộc
Vị lãnh tụ – Hồ Chí Minh.
Bác bôn ba, bao cực khổ
Lúc Châu Âu, khi Châu Á
Tại Hồng Kông, thành lập Đảng
Đất Cao Bằng, lưu sử xanh.
Tại Ba Đình, đất lịch sử
Ngày mồng hai, thu tháng chín
Năm bốn lăm, Bác tuyên đọc
Bản tuyên ngôn, khai sinh nước.
Điện Biên Phủ, khắc dấu son
Lừng Năm châu, chấn Địa cầu
Võ Nguyên Giáp, lập công đầu
Quyết tiến lên, giành chiến thắng.
Pháp chưa đi, Mỹ lại tới
Quân với dân, chung một lòng
Đánh giặc Mỹ, đuổi giặc nhà
Hợp Bắc Nam, về một mối.
Ngày ba mươi, tháng tư ấy
Năm bảy lăm, vui mừng nhất
Tin thắng trận, truyền khắp nơi
Bắc-Trung-Nam, đồng một dải.
Khơ-me Đỏ, nổi lòng tham
Đánh Tây Nam, hại dân lành
Vụ thảm sát, tại Ba Chúc
Là tội ác, bọn diệt chủng.
Quân dân ta, quyết tự vệ
Giữ biên cương, yên bờ cõi
Chống Pol Pot, giúp nước bạn
Thoát diệt chủng, được bình an.
Năm bảy chín, giặc tràn qua
Muốn dân ta, thành nô lệ
Chúng xua quân, toan kéo tới
Khắp vùng biên, là chiến trường.
Nhân dân ta, đã đoàn kết
Chống xâm lăng, đuổi giặc Tàu
Vững giang sơn, vẹn lãnh thổ
Ta toàn thắng, giặc rút lui.
Sau giải phóng, xoá giặc đói
Chống quan liêu, bỏ bao cấp
Nguyễn Văn Linh, nói và làm
Quyết đổi mới, đến thành công.
Các lãnh đạo, cùng chung tay
Lo việc nước, sửa việc nhà
Theo định hướng, rộng kết giao
Khắp năm châu, cùng phát triển.
Nhớ ơn Đảng, ơn Tổ quốc
Ta phải sống, cho có ích
Lấy đức hạnh, lấy nhân từ
Lấy lòng trung, xây dựng nước.